18/06/2023 - 05:57 PM - 260 lượt xem
Tóm tắt: Trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ luôn coi “bình định” là một trong những chiến lược cơ bản, hàng đầu, tiến hành trên khắp các địa bàn các tỉnh miền Nam. Trong giai đoạn khốc liệt nhất chống lại chính sách “bình định” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Khu ủy Khu V, mà trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Bình Định, quân và dân trong tỉnh đã mở cuộc đấu tranh chính trị rầm rộ, quyết liệt quy mô toàn tỉnh trong năm 1964-1965, sử dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương pháp, cách thức đấu tranh, từng bước làm thất bại các kế hoạch, chương trình “bình định” của Mỹ và chính quyền tay sai, giành thắng lợi, mở ra thế và lực mới cho phong trào cách mạng địa phương.
Từ khóa: Đấu tranh chính trị; Đảng bộ tỉnh Bình Định; 1964-1965.
1. Bình Định có vị trí chiến lược rất quan trọng, là cầu nối giữa các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ với các tỉnh Tây Nguyên, sang Lào và Campuchia. Đây là nơi tập trung một số sân bay quân sự như: Thiết Đính, Gò Quánh, Quy Nhơn và một số bến cảng lớn như: Quy Nhơn, Đề Gi, Tam Quan. Đặc biệt có Quốc lộ 19, từng được coi là “con đường máu”, thông lộ giữa miền duyên hải Nam Trung Bộ với các tỉnh Tây Nguyên. Nơi đây cũng là trục cơ động chiến lược của quân đội Sài Gòn và cả của các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng. Vì vậy, Mỹ-ngụy áp dụng mọi thủ đoạn nhằm “bình định”, lấn chiếm bằng được địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng này.
Bước vào triển khai Kế hoạch Giônxơn-Mắc Namara, Bình Định là tỉnh nằm trong vùng trọng điểm “bình định” lấn chiếm của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Để “bình định” có hiệu quả vùng trọng điểm chiến lược ấy, đầu năm 1963, quân số các sắc lính của Việt Nam Cộng hòa tại Bình Định tăng lên gần 18.000 người (toàn Khu 5 là 200.000 quân). Bên cạnh việc tăng quân số các loại, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức tăng cường hệ thống phòng thủ, củng cố những chốt điểm vùng giáp ranh, gia cố thêm hàng rào kẽm gai và hào sâu ở Tây Phù Cát, Tây Bắc Hoài Nhơn nhằm ngăn chặn những cuộc tiến công mới của Quân Giải phóng.
Từ tháng 3-1964 đến tháng 5-1965, là thời gian chiến tranh vô cùng ác liệt trên địa bàn tỉnh Bình Định. Để tiếp tục thực hiện lấn chiếm có trọng điểm đối với vùng nông thôn đồng bằng, Mỹ tăng cường hoạt động phi pháo, mở liên tiếp 1.043 cuộc càn quét sâu vào vùng giải phóng, từ Bình Khê trải dài đến Bắc Hoài Nhơn. Trong đó, đáng chú ý từ tháng 3 đến 7-1964, địch mở 243 cuộc càn quét, lấn chiếm lại 45 thôn, lập lại 35 ấp chiến lược và các tuyến giao thông hào ở Đông Nam, Tây Bắc Hoài Nhơn, Tây Phù Cát với dân số bị kẹp lại có lúc lên đến 100.000 người1. Từ tháng 8-1964 đến tháng 6-1965 địch mở 830 cuộc càn quét, trong đó có cuộc từ 1 tiểu đoàn trở lên, thậm chí có lúc địch điều quân tăng viện từ Nam Bộ ra và Gia Lai xuống với quân số có lúc lên đến 11 tiểu đoàn càn quét lấm chiếm các huyện phía Bắc Bình Định, nhất là Hoài Nhơn nhằm nối lại và bảo vệ đường giao thông, đóng chốt ở Phù Ly, Đèo Nhông (Phù Mỹ), Đèo Phú Cũ, Tài Lương, Gò Tam Quan (Hoài Nhơn),... Ngoài ra, địch còn mở nhiều cuộc càn quét phản ứng nhanh, quyết liệt với các vùng mới mở ra ở Bình Khê, An Nhơn, Đông Phù Cát; tăng cường hoạt động phi pháo, triệt hạ điển hình một số nơi ở An Đề (Hoài Nhơn), Hưng Nhơn (Hoài Ân), Thuận Ninh (Bình Khê), Vĩnh Quang, Huỳnh Giang (Tuy Phước) và nhiều vùng dọc ven biển từ Hoài Nhơn vào đến Tuy Phước2.
Để ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị và nhập thị ở tỉnh Bình Định, một mặt địch tăng cường xây dựng hệ thống phòng ngự mạnh hơn ở các vùng ngoại vi, nhất là từ phía Phước Hải đến Thị Nại; vùng núi Tây Nam từ đèo Son vào đến Ghềnh Ráng. Mặt khác, tại các vùng nông thôn, đồng bằng và ven biển, Mỹ-ngụy đẩy mạnh các hoạt động phong tỏa, uy hiếp, tăng cường hoạt động gián điệp, do thám, biệt kích, tập kích bằng trực thăng, cài cắm gián điệp vào nội bộ cách mạng để đánh phá phong trào. Đẩy mạnh chiến tranh tâm lý vừa hù dọa, vừa lừa bịp quần chúng, ra sức thực hiện âm mưu chiêu an, chiêu hồi để lôi kéo quần chúng.
Những âm mưu và hành động trên của Mỹ-ngụy đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho phong trào cách mạng Bình Định, nhất là tại những trọng điểm địch đánh phá và lấn chiếm. Dù vậy, thời điểm này, Mỹ-ngụy cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập; mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt, cả trong chính quyền, quân đội Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Về mặt chiến thuật, mâu thuẫn trong việc sử dụng quân như giữa tập trung và phân tán, giữa đánh phá có trọng điểm và chiếm đóng, chốt giữ ở nhiều nơi khác; giữa tập trung quân thị xã, thị trấn, các nơi quan trọng với lấn chiếm lại nông thôn; giữa những toan tính mở các cuộc hành quân càn quét với qui mô lớn của bên trên với tinh thần bạc nhược của binh sĩ và nhân viên chính quyền cơ sở....
Nhận định về tình hình địch, nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, Khu ủy 5, về đối phó với những âm mưu và thủ đoạn đánh phá mới của địch, tiếp tục đưa phong trào phát triển, tạo ra bước đột phá mới, Hội nghị Tỉnh ủy Bình Định (tháng 4-1964) quyết định phải tạo “sự đột biến” trong hoạt động chống, phá chính sách “bình định”. Trên cơ sở phân tích rõ nguyên nhân thắng lợi, hạn chế của phong trào chống, phá chính sách “bình định” và những bài học kinh nghiệm đã có trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo, Hội nghị chủ trương mở chiến dịch “Đồng khởi Khu Đông” ở các huyện phía Nam tỉnh, để giành quyền làm chủ đồng bằng vùng sâu, tạo hành lang và bàn đạp tiến vào Quy Nhơn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị, quyết tâm giành cho bằng được 90.000 đến 100.000 dân3.
Đến cuối năm 1964, phong trào cách mạng ở tỉnh Bình Định nảy sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi Đảng bộ phải có những chủ trương, biện pháp và bước đi thích hợp, tăng cường sự lãnh đạo sâu sát của Đảng bộ đối với cuộc đấu tranh chống địch “bình định” lấn chiếm trên địa bàn tỉnh. Từ ngày 20 đến ngày 25-11-1964, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ VI đã diễn ra. Đại hội đã tập trung phân tích những tiến bộ, “mổ xẻ” các khuyết điểm, hạn chế của Đảng bộ trong lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương từ sau “Đồng khởi Khu Đông”. Sau khi đánh giá lại tình hình địch-ta trong toàn tỉnh, phê phán những khuyết, nhược điểm trong chỉ đạo, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh là: trong lúc này cần phải với tinh thần thừa thắng bằng bạo lực ba mũi giáp công của quần chúng, kết hợp với cú đánh mạnh mẽ của chủ lực để giải phóng cho bằng được toàn bộ nông thôn đồng bằng. Cần phát huy tư tưởng chiến lược tiến công và sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công kết hợp với những quả đấm mạnh về quân sự để giải phóng và giành quyền làm chủ toàn bộ nông thôn đồng bằng. Phê phán và ra sức khắc phục những biểu hiện tư tưởng hữu khuynh, gờm ngại địch, sợ ác liệt hy sinh, cố thủ không mạnh bạo để “đưa phong trào đấu tranh chống địch lên hết trớn”4. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ địa phương hợp pháp để tuyên truyền, giáo dục, phát động tư tưởng quần chúng, biến quyết tâm của Đảng thành hành động cách mạng cụ thể trong tấn công và nổi dậy; cùng với phong trào khởi nghĩa bằng bạo lực cách mạng của quần chúng nông thôn, tích cực đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của tất cả các tầng lớp nhân dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trên khắp ba vùng chiến lược để đánh thắng kẻ thù.
Từ ngày 8 đến ngày 11-3-1965, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được tổ chức, đánh giá tình hình trong tỉnh và kết quả sau đợt hoạt động Đông-Xuân năm 1964-1965. Hội nghị nhấn mạnh: các địa phương cần khẩn trương tranh thủ thuận lợi tấn công địch liên tục, dồn dập và mạnh mẽ bằng cả 3 mũi giáp công đều khắp các vùng nông thôn, miền núi, thị trấn, thị xã, với quyết tâm thật cao và trên một quy mô lớn để tiêu hao, tiêu diệt nhiều hơn nữa sinh lực địch, nhằm giải phóng toàn bộ nông thôn đồng bằng và thị trấn, quận lỵ, đồng thời tích cực chuẩn bị tranh thủ chớp thời cơ giải phóng thị trấn, thị xã. Ra sức củng cố, xây dựng và kiên quyết giữ vững vùng làm chủ, không ngừng đưa phong trào đấu tranh chính trị quần chúng tiến lên chống lại mọi âm mưu càn quét, đánh phá của địch bảo vệ vùng giải phóng của cách mạng. Về nhiệm vụ đấu tranh chính trị, Hội nghị chỉ rõ: trước mắt cần kết hợp chặt chẽ với đấu tranh vũ trang tấn công địch mạnh mẽ, liên tục nhằm làm thất bại âm mưu càn quét lấn chiếm của địch, giữ thế trực diện đấu tranh của quần chúng để trụ bám nhằm trụ vững và mở rộng vùng giải phóng; phá ra các khu dồn dân về làng cũ; thực hiện kéo dân về và chuyển lên thế làm chủ; bảo vệ sản xuất, tính mạng và tài sản của nhân dân; phá thế kèm kẹp, giành quyền làm chủ ở các vùng yếu và thị trấn thị xã, đồng thời chuẩn bị lực lượng tiến lên theo phương hướng chung giành thắng lợi to lớn nhất. Yêu cầu đấu tranh chính trị là phải nâng cao từ “đấu tranh lẻ tẻ” lên “tập thể đấu tranh” ngày càng lớn và rộng khắp, tấn công địch quyết liệt và liên tục; tập hợp lực lượng rộng rãi, hình thành mặt trận Liên hiệp hành động, xúc tiến tập dượt đội ngũ để chuẩn bị cho những phương hướng đánh địch5.Để thực hiện hiệu quả mục tiêu và phương hướng trên, trước hết cần làm chuyển biến những nhận thức tư tưởng chưa tin đấu tranh chính trị trong cán bộ lãnh đạo, làm cho cán bộ thấy được ý nghĩa quan trọng và tính chất quyết định của đấu tranh chính trị, xây dựng được quyết tâm cao trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân đấu tranh, giành thắng lợi6.
Cùng với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ VI, Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng lần này không chỉ giải quyết những vấn đề quan trọng do phong trào cách mạng địa phương đặt ra, mà còn đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng bộ trong nhận thức và vận dụng phương châm chỉ đạo, phương thức cách mạng của Đảng vào chỉ đạo thực tiễn đấu tranh chính trị ở địa phương.
2. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ Bình Định, từ ngày 5-7 đến ngày 5-8-1965, tại trọng điểm Khu Đông là các huyện Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, bằng 3 mũi giáp công, quần chúng đồng loạt nổi dậy giải phóng 90 thôn ở 25 xã với 110.000 dân, phá rã hoàn toàn 84 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, từ ngày 10-7 đến ngày 20-8-1964, lần đầu tiên, Đảng bộ, nhân dân Bình Định mở cuộc tiến công chính trị trên quy mô toàn tỉnh vào hệ thống đồn bốt và bộ máy chính quyền địch từ tỉnh đến huyện, xã. Trên 380 cuộc mít tinh, biểu tình thị uy thu hút trên 90.000 lượt quần chúng tham gia đấu tranh chống Nguyễn Khánh độc tài, tố cáo tội ác của địch, đòi giải quyết khó khăn đời sống nhân dân. Nhiều cuộc, đồng bào khiêng xác người chết và bị thương bao vây quận lỵ, đòi địch bồi thường thiệt hại nhân mạng; chống ném bom, bắn phá bừa bãi vào xóm làng. Ngày 23-7-1964, trên 1.000 dân làm nghề biển ở bán đảo Phước Lý dùng hàng trăm canô, ghe thuyền chở người bị thương và tang vật do địch càn quét đốt phá tiến vào thị xã Quy Nhơn, đấu tranh quyết liệt7. Nguyễn Khánh phải đích thân từ Sài Gòn ra thị sát tình hình và hứa hẹn giải quyết các yêu sách của nhân dân.
Ngày 9-11-1964, phong trào đấu tranh chính trị ở Bình Định có bước phát triển mới. Tại trọng điểm Bồng Sơn và Quy Nhơn liên tiếp nổ ra 5 cuộc đấu tranh lớn, với hơn 25.000 quần chúng tham gia. Hàng ngàn thanh niên, học sinh và các tầng lớp quần chúng ở Quy Nhơn bao vây, đập phá đài phát thanh. Một lần nữa, Nguyễn Khánh phải ra tận nơi, lệnh cho máy bay lên thẳng, xe tăng, xe bọc thép đàn áp quần chúng tay không. Đặc biệt, trên 10.000 thanh niên, học sinh và đồng bào Phật tử đã xuống đường đấu tranh chống bắt lính, chống quân sự hóa học đường, vạch mặt lực lượng mật vụ, chỉ điểm do địch cài cắm trong trường học, chống tàn dư “Đảng cần lao nhân vị” của Ngô Đình Diệm. Trên 1.700 đồng bào ven biển Phù Cát, Tuy Phước dùng 220 ghe thuyền chở người chết, người bị thương tiến vào Quy Nhơn đấu tranh, địch phải dùng máy bay lên thẳng và hải thuyền để đối phó8.
Ngày 7-12-1964, thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ tỉnh, các lực lượng vũ trang, dân quân du kích trong toàn tỉnh đồng loạt tiến công hệ thống cứ điểm trên tuyến phòng thủ của địch dọc tỉnh lộ Bồng Sơn-An Lão và chi khu quân sự An Lão. Trong vòng 2 ngày, đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên địch, diệt 2 đại đội bảo an, 1 trung đội pháo binh, 1 trung đội xe M113, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn cộng hòa, làm tan rã 14 trung đội dân vệ, giải phóng chi khu quận lỵ và toàn bộ thung lũng An Lão với 11.000 dân. Phối hợp với tiến công quân sự, quần chúng nhân dân các huyện An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn nổi dậy đấu tranh chính trị phá 20 ấp chiến lược, tham gia truy bắt 125 lính tề điệp9.
Bước sang năm 1965, trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ âm mưu đưa một số đơn vị viễn chinh sang Việt Nam, chuẩn bị đổ quân ồ ạt vào miền Nam. Tại Bình Định, Mỹ tăng cường cố vấn và nhân viên kỹ thuật, đưa các đơn vị thiện chiến vào chiếm đầu cầu Quy Nhơn, tăng cường lực lượng quân đội ngụy tại địa phương. Để chống lại âm mưu của địch, đầu năm 1965, phối hợp chặt chẽ với tiến công quân sự, quần chúng nhân dân khắp nơi trong tỉnh Bình Định nổi dậy mở liên tiếp 130 cuộc đấu tranh chính trị với 115.000 lượt người tham gia, trong đó có cuộc biểu tình nhập thị và 29 cuộc biểu tình vào 7 quận lỵ đồng bằng. Nổi bật trong đợt tấn công chính trị lần này, ngày 25-1-1965, trong khi hơn 3.500 dân thị xã Quy Nhơn, các vùng phụ cận xuống đường chống chính quyền Khánh-Hương, thì hơn 50.000 lượt đồng bào của 7 huyện đồng bằng dưới hình thức “chợ nhồi”10, vừa loan tin chiến thắng của ta và vận động binh lính địch, vừa đấu tranh đòi tự do đi lại đón Xuân Ất Tỵ. Đến ngày 6-2-1965, hơn 6.000 người từ các xã kéo về Bồng Sơn và Tam Quan, vây chặt các cơ quan chính quyền Sài Gòn địa phương. Sáng ngày 11-2-1965, phối hợp với đòn tập kích lính Mỹ tại khách sạn Việt Cường, gần 3.000 dân các xã Đông Bắc Tuy Phước và Đông Nam Phù Cát, các vùng phụ cận, bằng hai đường biển, bộ tiến vào thị xã Quy Nhơn10. Đến giữa năm 1965, dưới sự chỉ đạo linh hoạt và sáng tạo của các cấp bộ Đảng địa phương, quân và dân Bình Định đã giành được những kết quả quan trọng trong đấu tranh chính trị: mở 1.756 cuộc mít tinh, biểu tình không trực diện, có gần 1.000.000 quần chúng tham gia; tổ chức 287 cuộc đấu tranh trực diện tập thể, trong đó có 14 cuộc đấu tranh đến cấp tỉnh, 49 cuộc đến quận với gần 65.000 người tham gia11.
Đấu tranh chính trị đã trở thành mũi tiến công sắc bén và lợi hại, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và binh vận, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân ở địa phương, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn càn quét lấn chiếm và “bình định” nông thôn của địch, góp phần xứng đáng cùng quân và dân miền Nam đánh bại những biện pháp chiến lược và chiến thuật chiến tranh chủ yếu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định: Đề cương Sơ kết phong trào cách mạng tỉnh Bình Định 1954-1970, tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bình Định,12-1970, tr. 9
2, 11. Tỉnh ủy Bình Định: Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bình Định, 7-1965, tr. 2-3,5
3. Tỉnh ủy Bình Định: Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 4-1964, tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bình Định, 1964, tr. 15
4, 7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định: Tổng kết tình hình chống Mỹ cứu nước trong 19 năm qua, tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy bình Định, 30-8-1973, tr. 10, 10
5, 6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định: Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bình Định, 11-3-1965, tr. 4, 9
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Công tác binh địch vận trên chiến trường Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Tổng hợp Bình Định, 2004, tr. 55
9. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định: 70 năm công tác tuyên giáo của Đảng bộ Bình Định (1930-2000), Nxb Tổng hợp Bình Định, 2004, tr. 136
10. Trong các hình thức đấu tranh chính trị, “đội quân tóc dài” tổ chức những cuộc đi “chợ nhồi”, có số lượng người tham gia đông mấy ngàn người, đa số là phụ nữ, được tổ chức chu đáo, có chỉ huy, có phương thức thực hiện. Đi “chợ nhồi” được xem như phương thức do thám, nắm tình hình, động thái địch đối phó để ta cảnh giác và có phương thức ứng phó khi tổ chức đấu tranh chính thức. Đây là cách đấu tranh hiệu quả, vì thấy chợ đông, toàn phụ nữ, binh lính ngụy rất sợ, phải chùn tay đàn áp, vì sợ làm quá, lực lượng này sẽ chuyển sang biểu tình thì chúng trở tay không kịp
11. Đảng bộ tỉnh Bình Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1945-1975), Nxb Tổng hợp Bình Định, 1996, T. 2, tr. 103.