Tóm tắt: Vùng Tây Nguyên nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó có tới 52 dân tộc thiểu số (DTTS) với bản sắc văn hóa đa dạng. ; bên cạnh đó, đây cũng là vùng còn có những khó khăn về kinh tế và xã hội, văn hóa. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, bằng nhiều phương thức thủ đoạn khác nhau, nhằm cản trở sự phát triển bền vững của vùng. Đảng và Nhà nước cũng như các địa phương vùng Tây Nguyên đã và đang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên.

Từ khóa: Tây Nguyên; dân tộc thiểu số; đoàn kết dân tộc


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Ảnh: TTXVN

1. Khái quát về vùng Tây Nguyên
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng), 62 đơn vị hành chính cấp huyện (6 thành phố, 3 thị xã, 53 huyện), 726 đơn vị cấp xã (77 phường, 49 thị trấn, 600 xã), với diện tích tự nhiên 54.474 km2, chiếm 16,8% diện tích cả nước. Cư dân vùng Tây Nguyên có nguồn gốc từ 63 tỉnh, thành trên cả nước, với tỉ lệ thành phần dân tộc, gồm: người DTTS chiếm 36,52%; trong đó: 12 DTTS tại chỗ gốc Tây Nguyên chiếm khoảng 25%, các DTTS khác chiếm trên 10% (đông nhất là DTTS các tỉnh phía Bắc, như Tày, Nùng, Mông, Thái, Mường,  Dao...). 
Từ sau năm 1975 đến nay, các tỉnh Tây Nguyên luôn có các biến động dân cư với quy mô lớn, số lượng tăng nhanh nhất cả nước. Năm 1976, dân số Tây Nguyên chỉ có 1,23 triệu người, với 18 dân tộc, trong đó DTTS chiếm 69,7% dân số; đến năm 1993, dân số toàn vùng là 2,37 triệu người, với 35 dân tộc; năm 2003 là 4,67 triệu, với 46 dân tộc; năm 2022, dân số khoảng 6 triệu người với 53  dân tộc cùng cư trú trên địa bàn, trong đó có 52 DTTS1.
Với đặc điểm cư dân và dân tộc như vậy, một mặt, tạo ra sự đa dạng bản sắc văn hóa. Các tỉnh Tây Nguyên đều có nhiều dân tộc cư trú và sinh sống; mặt khác, lại tạo ra sự phức tạp, những khó khăn do điều kiện và trình độ phát triển giữa các dân tộc còn chênh lệch. Địa bàn cư trú chia cắt, giao thông còn nhiều khó khăn, ít nhiều, tạo ra tính khép kín của các cộng đồng, nhất là các cộng đồng DTTS tại chỗ. Những yếu tố tộc người đan xen với yếu tố văn hóa, tôn giáo tạo nên sự nhạy cảm chính trị của vùng.

2. Hoạt động chống phá chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc ở vùng Tây Nguyên
Một là, nhận diện một số nội dung chủ yếu của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết dân tộc vùng Tây Nguyên:
Thứ nhất, đây là vùng nhiều DTTS cư trú, lợi dụng tình hình đời sống của số đông đồng bào vẫn còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhận thức xã hội còn hạn chế để kích động, chống phá; thông qua nhiều chiêu trò khác nhau, hứa hẹn các lợi ích vật chất để dụ dỗ, lôi kéo, từ đó tiến hành kích động gây mất trật tự ổn định chính trị -xã hội (CT-XH) làm cho người dân mắc mưu dẫn đến những hành động lầm lạc có tính chất phá hoại, cực đoan. Trọng điểm của sự chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở vùng Tây Nguyên chủ yếu diễn ra ở vùng, địa phương có DTTS cư trú và sinh sống, vùng có đông đồng bào theo đạo, vùng điều kiện sống đã nhạt dần với lối sống và văn hóa truyền thống.
Thứ hai, lợi dụng các vấn đề lịch sử - hiện tại liên quan đến đất đai, tài nguyên rừng và một số bất cập cụ thể trong việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội (KT-XH), vấn đề dân sinh, dân chủ…để xuyên tạc, chống phá. Từ xa xưa trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng có nhiều dân tộc, tộc người sinh sống; cùng với quá trình biến động dân cư do quá trình di dân tới vùng này, đã nảy sinh các yếu tố phức tạp về đất đai. Thực tế đó, bị các thế lực thù địch, chống phá cách mạng lợi dụng, kích động ảnh hưởng đến sự phát triển chung và tình hình an ninh chính trị xã hội của vùng.
Khơi dậy những vấn đề lịch sử xa xưa để kích động, chia rẽ người Kinh với đồng bào các dân tộc khác ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã sử dụng tổ chức FULRO tuyên truyền, xuyên tạc với các luận điệu như “Tây Nguyên là của người Thượng”, “Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi”, v.v..
Xoáy vào các vấn đề các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội, các lực lượng chống phá thường xúi giục nhân dân, khuếch đại sự chú ý; lợi dụng những yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền, thổi phồng, biến cá biệt thành cái toàn thể,... làm cho người dân từ nghi ngờ đến mất lòng tin vào Đảng, chế độ.
Thứ ba, lợi dụng tình hình vùng Tây Nguyên xa trung tâm, địa hình phức tạp, nhiều DTTS có mặt không chỉ một tỉnh mà nhiều tỉnh; một số địa phương thuộc khu vực biên giới của hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông giáp giới với nước ngoài - nơi từng là địa bàn hoạt động mạnh mẽ của FULRO; chúng ẩn náu, âm thầm cài người và tập hợp lực lượng từ bên trong, nuôi dưỡng lực lượng từ bên ngoài, chờ đợi những thời điểm sơ hở là hành động.
Thứ tư, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá khối đại đoàn kết, sự ổn định chính trị xã hội. Trong lịch sử, chúng đã từng “lôi kéo một số đồng bào từ bỏ một số tín ngưỡng truyền thống để theo Công giáo và Tin lành...”4. Hiện nhiều DTTS vùng Tây Nguyên, hoặc một bộ phận ngay trong DTTS đi theo Tin lành, thực hành tín ngưỡng Tin lành, xa rời các văn hóa truyền thống của dân tộc mình mà nguy hại là Tin Lành Đề Ga.
Chúng âm ỉ kích động, nói xấu Đảng, Nhà nước ta, quy kết vi phạm “tự do tôn giáo”, chia rẽ sự đoàn kết giữa người theo đạo và người không theo đạo hoặc giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Lợi dụng đức tin của bà con giáo dân, họ lồng ghép rao giảng đạo lý với vấn đề chính trị diễn ra trong đời sống xã hội, nhằm làm lu mờ đường hướng sống “tốt đời, đẹp đạo”, “đạo pháp - dân tộc- xã hội chủ nghĩa”, “kính chúa, yêu nước”, thực hiện việc kích động, chống phá, chia rẽ, v.v.
Lực lượng chống phá luôn coi và sử dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo như một chiêu bài chính trị hữu hiệu, qua đó, lực lượng chống phá xuyên tạc, vu khống một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam ta về dân tộc, tôn giáo để gây dư luận xấu trong nhân dân, gây tiếng vang ra nước ngoài và lôi kéo sự vào cuộc của một số tổ chức quốc tế với luận điệu quen thuộc: Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Chúng xúi giục người dân các DTTS chống lại Đảng, Nhà nước, đòi ly khai, tự trị, tiến tới thành lập "Nhà nước riêng”, gắn với "tôn giáo riêng”, của người DTTS Tây Nguyên, với cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đề Ga”. Chúng cấu kết âm thầm, tăng cường xây dựng cơ sở kinh tài, mở các lớp đào tạo kiến thức văn hóa cho đồng bào, tổ chức dạy “Luật Đề Ga” cho người dân; thu thập cờ, tài liệu, bản đồ liên quan “Nhà nước Đề Ga”. Từ nước ngoài, chúng gửi kinh phí, cờ vào trong nước để gây dựng lực lượng. Các đối tượng cầm đầu thường xuyên tham dự các diễn đàn, các hội nghị quốc tế về nhân quyền, tôn giáo và người tị nạn nhằm kêu gọi sự hỗ trợ, giúp đỡ, liên kết của các thế lực thù địch, phản động; vận động hành lang các nước ủng hộ tài chính để nuôi dưỡng và xây dựng lực lượng bên trong.
Hai là, về phương thức, tổ chức và một số việc tiêu biểu của các thế lực thù địch tiến hành chống phá khối đại đoàn kết dân tộc ở vùng Tây Nguyên
Phương thức tổ chức hoạt động của các thế lực trên địa bàn Tây Nguyên được thực hiện thông qua các hội, nhóm, các tổ chức có tính quốc tế đã được lập ra cả ở trong và ngoài nước, như: Việt Tân, Cao trào Nhân bản, BP SOS, Đảng Dân chủ Việt Nam, Hội Phụ nữ nhân quyền, v.v.
Hoạt động chống phá chủ yếu được thực hiện qua các diễn đàn trên internet, website, blog,…mạng xã hội có máy chủ đặt ở nước ngoài để đăng tải các bài viết có nội dung xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Chúng lợi dụng triệt để các phương tiện truyền thông, phát tán tài liệu phản động, tung tin thất thiệt, sai lệch về đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Từ các luận điệu này, các thế lực thù địch tiếp tục khoét sâu tâm lý ly khai hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết giữa người có đạo và người không theo đạo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết Đảng với nhân dân, v.v. đã gây ra một số vụ việc có tính chất bạo loạn ở Tây Nguyên: cuộc bạo động vào năm 2001, năm 2004, đặc biệt gần đây là sự kiện ngày 11-6-2023 tại Đắk Lắk, gây hoang mang và ảnh hưởng sâu sắc tới phát triển kinh tế- xã hội toàn vùng.  Sự kiện ngày 10-4-2004, khoảng hàng ngàn đồng bào người dân tộc thiểu số gồm người già, thanh niên và trẻ em nam nữ thuộc các thôn của 39 xã, của 17 huyện thuộc các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và Đắk Nông đã dùng hơn 350 máy cày, máy kéo và hàng trăm xe máy, mang theo hung khí, gậy gộc và đá... kéo đến các địa điểm trung tâm của các địa phương nói trên để thực hiện cuộc gây rối với quy mô lớn, nhằm gây sức ép với chính quyền “đòi đất” và đưa ra một số yêu sách khác. Vụ việc diễn ra khá bất ngờ và bị động, chính quyền các địa phương gặp ít nhiều lúng túng, song lãnh đạo cấp ủy và chính quyền địa phương đã kịp thời cử cán bộ đến các điểm nóng để lắng nghe ý kiến và kiên trì giải thích nhằm ổn định trật tự. Các lực lượng bảo vệ an ninh trật tự cũng đã có nhiều nỗ lực nhằm ổn định tình hình và kiên trì kiềm chế, ngăn chặn những hành vi quá khích của những người gây rối, khuyên họ ra về. Thông tin từ báo chí tại thời điểm đó ghi nhận, đã có 80 cán bộ, chiến sĩ thi hành công vụ bị đám đông quá khích dùng đá và hung khí đánh bị thương, trong đó có nhiều người bị trọng thương. Việc xô xát giữa những người gây rối với nhân dân địa phương cũng đã làm cho một số người bị thương tích, trong đó có 2 người chết. Với sự nỗ lực của cấp ủy và chính quyền, các lực lượng chức năng, vụ việc dần dần được giải quyết, kiểm soát tình trạng đổ máu, mất mát về người và của. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã lợi dụng sự kiện này thổi phồng số lượng người tham gia gây rối trật tự trị an. Một số phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài nhân đó đã dựng đứng lên cái gọi là vụ "đàn áp người Thượng theo đạo Tin lành" ở Tây Nguyên, bịa đặt, thổi phồng con số người gây rối bị đàn áp thương vong…
Tổ chức có liên quan trực tiếp và chịu trách nhiệm chính trong vụ việc 2004 là "Quỹ Người Thượng" ở Mỹ do Ksor Kok cầm đầu, còn lực lượng tham gia chủ yếu là đồng bào DTTS, họ đều bị dụ dỗ, lôi kéo bởi những lợi ích vật chất; các lực lượng chống phá lợi dụng tình trạng thiếu “cái chữ trong đầu”, vừa thiếu cả “hạt cơm trong bụng” của đồng bào để lôi kéo, dụ dỗ, kích động, chống phá gây nên tình trạng bất ổn nơi chính vùng đồng bào sinh sống.
 Gần đây nhất là vụ việc xảy ra vào đêm về sáng ngày 11-6-2023 tại xã Ea Tiêu và xã Ea Ktul, thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, do khoảng 40 phần tử quá khích có trang bị vũ khí thô sơ và vũ khí quân dụng phân làm hai nhóm, tấn công trụ sở chính quyền xã và lực lượng công an xã, cũng như dân thường qua đường; khiến một số cán bộ và chiến sĩ hi sinh, một số người dân bị thiệt mạng. Sự kiện đã gây chấn động cả nước bởi sự manh động và mạn rợ của bọn khủng bố. Điều đáng nói ở đây là tất cả các vụ việc trên đều phần lớn do người DTTS tại chỗ thực hiện dưới sự lôi kéo, xúi dục và kích động của các thế lực thù địch, các phần tử chống đối ở trong nước và từ ngoài nước. Thực tế hoạt động chống phá qua các vụ việc ở Gia Lai năm 2001, vụ việc Đắk Lắk năm 2004, vụ việc Đắk Lắk năm 2023 có tính chất cơ bản giống nhau, chỉ quy mô và cách thức tổ chức là khác nhau. Có thể khẳng định, các cuộc bạo loạn năm 2001, năm 2004, năm 2023 là những hoạt động có tổ chức, do những thế lực thù hận với Việt Nam ở nước ngoài tiếp tay, kết hợp với các phần tử chống đối ở trong nước, chủ yếu là FULRO, lợi dụng những yếu kém của đồng bào DTTS, sơ hở của chính quyền địa phương, chúng lôi kéo dụ dỗ đồng bào, tập hợp lực lượng, chống phá chính quyền cách mạng, chia rẽ sự đoàn kết, gây ra những bất ổn chính trị xã hội trên địa bàn.

3. Đấu tranh chống chia rẽ khối đoàn kết dân tộc ở vùng Tây Nguyên, bảo vệ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Nhận thức tầm quan trọng của Tây Nguyên cũng như những tồn tại, hạn chế từ thực tiễn và lịch sử, Đảng và Nhà nước đã kịp thời ban hành nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù vùng Tây Nguyên như: Chỉ thị số 03-CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ “về một số chủ trương, biện pháp cấp bách nhằm tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động đòi thành lập “Nhà nước Đề Ga độc lập” ở Tây Nguyên; Chỉ thị 16/2004-CT/TTg ngày 1-5-2004 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động FULRO, bảo đảm an ninh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Đặc biệt mới đây là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của Tây Nguyên đến năm 2030 và tầm nhìn 2045. Về mục tiêu đến năm 2030, Nghị quyết nhấn mạnh: “Tây Nguyên là vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; giàu bản sắc văn hóa dân tộc, điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn có thương hiệu quốc tế gắn với các trung tâm chế biến. Cơ bản hình thành hạ tầng giao thông quan trọng, hạ tầng số. Hệ thống thiết chế văn hóa được nâng cấp. Giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và đa dạng sinh học được bảo tồn và phát triển; an ninh nguồn nước được bảo đảm. Quốc phòng, an ninh khu vực biên giới được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, duy trì ổn định. Tổ chức đảng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tăng cường”. Tầm nhìn đến năm 2045: Tây Nguyên trở thành vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, tuần hoàn; một số tỉnh trong vùng thuộc nhóm phát triển khá của cả nước. Hệ sinh thái rừng được bảo tồn và phát triển; hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hình thành các vùng sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa và trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Phát triển hài hoà giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng, an ninh; người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bản sắc văn hóa được phát huy và trở thành nền tảng để phát triển. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc; biên giới Hòa Bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường5.
Để làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở vùng Tây Nguyên, cần tiếp tục thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trình độ dân trí cho các tầng lớp nhân dân
Thực hiện tuyên truyền sâu rộng các chính sách chủ trương của Đảng và Nhà nước tới các cư dân vùng Tây Nguyên, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; nâng cao dân trí bằng việc dạy chữ, phổ biến kiến thức pháp luật, tri thức khoa học, văn hóa cho đồng bào; tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trình độ dân trí bằng cả hai thứ tiếng: Tiếng phổ thông và tiếng DTTS.
Chú trọng tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với toàn vùng; kịp thời đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các luận điệu thổi phồng, xuyên tạc, làm méo mó các chủ trương, chính sách đó.
Hai là, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, đất đai…; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
Tiếp tục khắc phục những hạn chế về mặt chính sách và thực thi chính sách liên quan đến đất đai, tài nguyên rừng, chính sách tôn giáo, dân tộc, để chính sách của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống.
Đi đôi với nâng cao nhận thức, dân trí là nâng cao đời sống vật chất cho người dân, cho đồng bào DTTS bằng các giải pháp kinh tế, tạo việc làm, mang lại thu nhập ổn định. Đây vẫn là vấn đề khó, vì đồng bào xưa nay chủ yếu dựa vào tự nhiên, vào khai thác các sản vật từ rừng. Tuy nhiên, hiện nay rừng bị thu hẹp, Nhà nước bảo vệ chặt chẽ rừng và đất rừng. Trong khi trình độ và kĩ năng nghề nghiệp mới của đồng bào DTTS nhìn chung còn hạn chế, nên cơ hội tiếp cận các việc làm thu nhập cao gặp không ít khó khăn, họ chủ yếu vẫn lao động chân tay trong lĩnh vực nông nghiệp và lao động thời vụ, đời sống khá bấp bênh.
Ba là, xây dựng vững chắc thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân
Xây dựng thế trận an ninh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đối với vùng có nhiều DTTS sinh sống, phải xây dựng được sự gắn kết, sự hòa hợp dân tộc, an ninh bằng việc củng cố hệ thống chính quyền cơ sở,  thôn, buôn, tổ dân phố; tranh thủ được những người có uy tín với cộng đồng như già làng, thầy phán xử, người có uy tín…góp phần bảo đảm trật tự, trị an. Cần củng cố đội ngũ cộng tác viên nắm bắt tư tưởng, dư luận, các nguy cơ tiềm ẩn về an ninh; cần có các hộp thư, kênh để nhân dân kịp thời phản ánh tin tức cho chính quyền.
Cần bảo vệ tốt các mục tiêu mà các thế lực thường nhắm tới như trụ sở cơ quan công quyền, các công trình công cộng…bằng việc xây dựng các hệ thống giám sát, cảnh báo thông minh để kịp thời nắm bắt thông tin và thực hiện tốt việc phòng ngừa.
Xây dựng thế trận lòng dân, từ dân để bảo vệ chính quyền, bảo vệ cái đúng, cái hợp lý, dũng cảm đấu tranh với cái sai; làm cho nhân dân yên tâm, tin tưởng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân luôn là thành trì vững chắc bảo vệ sự bình yên, ngăn chặn những tác động xâm hại tới sự bình yên của thôn, buôn, tổ dân phố nơi mình sinh sống.
Bốn là, cảnh giác, kịp thời đấu tranh với các thế lực thù địch và phòng vệ từ xa các nguy cơ tiềm ẩn về an ninh, trật tự
Hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền cơ sở phải kịp thời nắm bắt thông tin, dư luận để xây dựng, chỉ đạo phương án tuyên truyền, đối sách hiệu quả với các biểu hiện chống phá, gây rối, mầm mống của sự bất ổn; phải làm tốt công tác phòng vệ từ xa, bằng việc củng cố sức mạnh từ bên trong, phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và phát triển thôn, buôn, làng, phố, thị, xây dựng đời sống an toàn, văn minh, tiến bộ.
Tiếp tục củng cố HTCT cấp cơ sở; cán bộ xã/phường/thị trấn phải bám chắc, nắm chặt địa bàn, gần dân, sát thực tế, thực tiễn. Xây dựng nền tảng HTCT vững mạnh từ cơ sở, hướng về cơ sở.



1. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019, địa bàn Tây Nguyên có 52 thành phần dân tộc; theo Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ năm 2022, vùng Tây Nguyên có 53 thành phần dân tộc. Ở đây, bài viết sử dụng số liệu tại Báo cáo số 1045-BC/BCSĐCP của Ban Cán sự Đảng Chính phủ “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển kinh tế- xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010” và Kết luận số 12-KL/T W của Bộ Chính trị khoá XI “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020”.
2. Quyết định số 1194/QĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22-7-2014 “phê duyệt Quy hoạch phát triển vùng Tây Nguyên đến năm 2020”.
3. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2022/11/7/21/NQ-23.pdf.
4. Tỉnh ủy Đắk Lắk: Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO (1975-2015), Đắk Lắk, 2018, tr.25.
5. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (đã dẫn), tr. 4, 6; https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2022/11/7/21/NQ-23.pdf.
5. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2018), Tài liệu đã dẫn, tr.145.
6. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch UBTƯMTTQVN Phạm Thế Duyệt: Vụ gây rối ở Tây Nguyên là do âm mưu thâm độc của các thế lực phản động trong và ngoài nước, https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/vu-gay-roi-o-tay-nguyen-la-do-am-muu-tham-doc-cua-cac-the-luc-phan-dong-trong-va-ngoai-nuoc-79723.htm, truy cập ngày 20/8/2023.