Tóm tắt: Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập năm 1950, trên sơ sở hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên; năm 1968, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ sáp nhập thành tỉnh Vĩnh Phú, đến năm 1997, tỉnh Vĩnh Phúc tái lập. Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có truyền thống yêu nước và cách mạng, luôn năng động, sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã giành được những thành tựu to lớn, đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh đến nay. Bài viết tập trung làm rõ sự chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội.

Từ khóa: Tỉnh Vĩnh Phúc; khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế; điểm sáng phát triển kinh tế-xã hội

1. Vĩnh Phúc-Nơi khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế

Tỉnh Vĩnh Phúc là nơi khởi nguồn của đổi mới tư duy quản lý kinh tế nông nghiệp, với phương thức ba khoán táo bạo, trong đó có khoán đến hộ gia đình xã viên, trong thập kỉ 60 thế kỷ XX.

Năm 1965, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc cử một tổ công tác gồm cán bộ quản lý và cán bộ kĩ thuật về hợp tác xã thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường để làm thí điểm khoán cây lúa cho hợp tác xã. Đây là hợp tác xã có truyền thống sản xuất giỏi. Kết quả năm đầu thực hiện khoán thí điểm đạt năng suất 6,5 tấn lúa/ha/năm. Đây là năng suất lúa rất cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nên ngày 2-3-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen. Vụ Đông-Xuân 1965-1966, hợp tác xã thôn Thượng tiếp tục thực hiện khoán sản xuất lúa, đạt năng suất hơn 5,9 tấn/ha1. Từ kết quả đạt được trong thực tiễn thử nghiệm hình thức khoán sản xuất lúa, ngày 10-9-1966, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TU “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã hiện nay”. Nghị quyết xác định: “Kiên quyết thực hiện bằng được đúng và tốt chế độ ba khoán, khoán việc cho nhóm, cho lao động và cho hộ bảo đảm sử dụng hợp lí sức lao động và tăng năng suất lao động”2. Nghị quyết chỉ rõ phải áp dụng rộng rãi hình thức khoán việc cho nhóm, cho từng lao động, cho hộ và giao khán riêng từng khâu. Vì thực hiện tốt được ba khoán sẽ giải quyết được vấn đề năng suất lao động, kích thích được tính tích cực, đẩy mạnh nâng cao năng suất lao động của từng người, từng nhóm, tập thể hợp tác xã, từ đó sẽ tránh sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng, tự do tùy tiện, do đó quản lý lao động được chặt chẽ, kỉ luật lao động được tự giác, tiết kiệm sức lao động, tận dụng khả năng lao động phụ, lao động nhàn rỗi trong các gia đình, đồng thời khắc phục được tình trạng quan liêu, thoát li sản xuất, xa rời quần chúng, tham ô, tư lợi của cán bộ cơ sở3. Đây là chủ trương mang tính đột phá về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh và hạn chế về nhận thức, nên chủ trương này không được Trung ương chấp nhận4. Ngày 12-12-1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 224-TT/TW “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất ở một số địa phương”. Ban Bí thư cho rằng chủ trương này của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc là lệch lạc, sai lầm về công tác quản lý kinh tế nông nghiệp “là trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”5; phải “chấm dứt mọi hình thức giao khoán ruộng đất của tập thể cho hộ”6. Tuy nhiên, 20 năm sau (1968-1988), khi cả nước đã bước vào thực hiện đường lối đổi mới được 2 năm, chủ trương khoán hộ của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã được Trung ương chính thức xác nhận bằng Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (4-1988).

2. Thành tựu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm 1997-2020

Sự chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và tình hình thực tế ở địa phương tiếp tục được phát huy trong công cuộc đổi mới. Qua đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã lãnh đạo nhân dân giành được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong phát triển kinh tế- xã hội.

Khi mới tái lập tỉnh (1997), Vĩnh Phúc là tỉnh nghèo, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 48% so với bình quân chung cả nước. Kinh tế hàng hóa chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp chiếm 52,5% giá trị GDP. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm, ít doanh nghiệp lớn và hầu hết đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Dịch vụ du lịch kém, chậm được khai thác. Kinh tế hợp tác chậm được đổi mới, kinh tế ngoài quốc doanh quy mô còn nhỏ bé. Nguồn tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng còn nghèo nàn, chưa được khai thác hiệu quả. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng thấp kém. Thu ngân sách toàn tỉnh chưa đạt 100 tỷ đồng. Trước thực tế đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ động phát huy dân chủ, quyết tâm tập trung phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tháng 11-1997, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XII đề ra phương hướng phát triển kinh tế-xã hội những năm 1997-2000 là: “Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, nhất là đốì với công nghiệp, sớm thoát khỏi tình trạng kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định, vững chắc... Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giải quyết tốt hơn về việc làm, nâng cao đời sống nhân dân”7 . Đại hội đề ra chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội (1997-2000) là: Tăng GDP bình quân 18-20%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân trên 50%/năm; giá trị sản xuất nông-lâm nghiệp tăng bình quân 4,5-5%/năm; giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 17-18%/năm; tổng sản lượng lương thực quy thóc bình quân 35 vạn tấn/năm, đến năm 2000 đạt 37-38 vạn tấn; tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 16 triệu USD vào năm 2000, trong đó, xuất khẩu địa phương đạt 7 triệu USD, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9 triệu USD; thu nhập bình quân đầu người đạt từ 280-300 USD vào năm 2000; cơ bản xóa được hộ đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng, giảm tỷ trọng nông-lâm nghiệp. Cụ thể, giảm tỷ trọng nông-lâm nghiệp trong GDP từ 48,27% năm 1996 xuống còn 25% năm 2000; tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng từ 13,98% năm 1996 lên 44% năm 2000; giảm tỷ trọng dịch vụ từ 37,75% năm 1996 xuống còn 31% năm 2000; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,6% vào năm 20008.

Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XII (1997-2000), kinh tế của tỉnh đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, nhất là công nghiệp và xây dựng. GDP tăng bình quân 17,8/năm, tuy chưa đạt chỉ tiêu đề ra (18-20%/năm) nhưng cao hơn nhiều so với bình quân chung cả nước. Tuy vậy, do xuất phát thấp nên GDP bình quân đầu người chỉ bằng 70% bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực: công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ.

Về công nghiệp, Đảng bộ tỉnh chủ trương tập trung mọi nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Hướng chủ yếu là phát triển công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp ngoài quốc doanh, sắp xếp công nghiệp quốc doanh trên địa bàn. Nhờ đó, sản xuất công nghiệp, xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng cao, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 75,7%/năm, giá trị sản xuất năm 2000 đạt 5.463,5 tỷ đồng, tăng hơn chín lần so với năm 1996. Riêng giá trị sản xuất công nghiệp tăng 90,6%/năm chủ yếu do công nghiệp có vốn đầu tư nưốc ngoài (FDI), khu vực này tăng trưởng bình quân đạt 190,6%/năm. Năm 2000, giá trị sản xuất của công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỉ trọng 90% tổng giá trị ngành công nghiệp9.

Trong nông-lâm nghiệp đã giải quyết tốt một số vấn đề về thủy lợi, giống, vốn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nên năng suất, sản lượng lúa liên tục tăng. Giá trị sản xuất ngành nông-lâm nghiệp-thủy sản tăng bình quân 5,8%/năm, tăng 25% so với năm 1996. Năng suất lúa bình quân một vụ từ 32,06 tạ/ha (1996) lên 34,6 tạ/ha (2000). Sản lượng lương thực quy thóc đạt 40,2 vạn tấn, tăng bình quân 6,9%/năm. Bình quân lương thực đầu người năm 2000 đạt 362 kg/người, tăng 85,7 kg so với năm 1996, đạt mức cao nhất so với trước đó, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và bước đầu có nông sản hàng hóa. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao. Thu nhập bình quân một hécta canh tác đạt 20,56 triệu đồng/năm, tăng 3 triệu đồng so với năm 199610.

Các hoạt động dịch vụ, thương mại phát triển khá, giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 13,7%/năm. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ năm 2000 đạt 1.214 tỷ đồng, tăng 67% so với năm 1996. Kinh doanh du lịch có những chuyển biến tích cực, doanh thu du lịch tăng bình quân 39,8%/năm. Các hoạt động dịch vụ như: tín dụng, ngân hàng, cung ứng điện, bưu điện, giao thông vận tải ngày càng mở rộng và có nhiều tiến bộ. Năm 2000, doanh thu vận tải đạt 100,2 tỷ đồng, tăng bình quân 20,2%/năm. Doanh thu ngành bưu chính viễn thông và cung ứng điện tăng 1,5 lần so với năm 1997. Số máy điện thoại tăng gấp ba lần so với năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 20,987 triệu USD, tăng 4,7 lần so với năm 1996, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra, trong đó, xuất khẩu địa phương đạt 8,8 triệu USD11.

Thu ngân sách trên địa bàn và chi ngân sách địa phương đạt kết quả khá, tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 655,9 tỷ đồng (2000), tăng 5 lần so với năm 1996. Trong đó, nguồn thu tăng chủ yếu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng từ 24,3 tỷ đồng (1997) lên 163 tỷ đồng (2000). Chi ngân sách địa phương  đạt 500,13 tỷ đồng (2000), tăng 1,7 lần so với năm 199712.

Cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là thị xã Vĩnh Yên có bước phát triển khá nhanh. Tất cả các tuyến tỉnh lộ từ thị xã Vĩnh Yên đi các huyện đều được nhựa hoặc bê tông hóa. Hơn 50% các trường phổ thông trong tỉnh được xây cao tầng. Tất cả các xã đều có điện lưới và điện thoại. Năm 2000, tỷ lệ máy điện thoại là 1,6 máy/100 hộ (năm 1996 là 0,4 máy/100 hộ); cơ bản hoàn thành xây dựng trụ sở làm việc cho các cơ quan cấp tỉnh và hai huyện mới tái lập13.

Với kết quả đạt được của nhiệm kỳ đầu tiên sau khi tái lập tỉnh, tháng 3-2001, Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ (2001-2005) đã xác định: “Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế theo cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ, thực hiện phân công lại lao động xã hội. Kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh, ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, sớm vượt qua nghèo đói, từng bước tiến tới giàu có, phồn thịnh”14. Đại hội đề ra mục tiêu cụ thể 5 năm (2001-2005): GDP tăng bình quân trên 10%/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 350 USD/năm; giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng bình quân hằng năm 16%; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân hằng năm 4,5-5%; giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 9%/năm; sản lượng lương thực bình quân đạt 40 vạn tấn/năm; kim ngạch xuất khẩu đạt 40-45 triệu USD; cơ cấu kinh tế đến năm 2005 bao gồm: công nghiệp và xây dựng đạt 46%, nông-lâm nghiệp đạt 24,5%, du lịch-dịch vụ đạt 29,5%; giải quyết việc làm 15.000-16.000 người/năm; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2005 là 11%; hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 25%15. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Đại hội đã đề ra 10 chương trình kinh tế-xã hội trọng điểm16.

Thực hiện chủ trương đề ra, trong 5 năm (2001-2005), tổng sản phẩm trong tỉnh Vĩnh Phúc (GDP) tăng bình quân 15,3%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 515 USD; tổng thu ngân sách trên địa bàn bình quân đạt 2.076,7 tỷ đồng/năm, tốc độ tăng bình quân 36,46%/năm; thu nội địa tăng bình quân 55%/năm, chiếm 78,7% tổng thu ngân sách trên địa bàn. Tỉnh Vĩnh Phúc đã tự cân đối được ngân sách và có đóng góp cho ngân sách Trung ương. Cùng với những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng có nhiều tiến bộ, phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội 17.

Từ những kết quả đạt được, trong những năm 2005-2015, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục đề ra mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP đạt đạt 14-15%/năm, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và trở thành Thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI18.

Thực hiện chủ trương trên, trong những năm 2005-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc vẫn duy trì ở mức cao, đạt bình quân 17,4%/năm, vượt khá xa chỉ tiêu đề ra; GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 31 triệu đồng, tương đương 1.630 USD19. Trong những năm 2010-2015, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nên GDP bình quân chỉ đạt 6,2%/năm; tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) đạt 73,7 nghìn tỷ đồng (2015), tăng 1,7 lần so với năm 2010; GRDP bình quân đầu người đạt 70 triệu đồng (2015), gấp hơn 2 lần so với năm 201020.

Trong kế hoạch 5 năm (2015-2020), tỉnh Vĩnh Phúc đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7-7,5%/năm. Trong đó, công nghiệp-xây dựng tăng 7,0-7,5%/năm, dịch vụ tăng 10,5-11,0%/năm, nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 3,5- 4,0%/năm; Cơ cấu kinh tế đến năm 2020: Công nghiệp-xây dựng 61,5%, dịch vụ 31,4%, nông, lâm nghiệp, thủy sản 7,1%; Quy mô GRDP đến 2020 bằng 1,5-2 lần so với năm 2015; Vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm chiếm khoảng 25-30% GRDP; Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước trên GRDP hằng năm đạt 22-23%, năm 2020 thu ngân sách nhà nước khoảng 26.500-27.000 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 110 triệu đồng; Thu hút mới 1,3-1,5 tỷ USD vốn đăng ký từ các dự án FDI và 14.000-15.000 tỷ đồng vốn đăng ký từ các dự án DDI21.

Thực hiện chủ trương trên, tổng sản phầm kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc GRDP đến năm 2019 đạt 118.397 tỷ đồng, đứng thứ 5 Vùng đồng bằng sông Hồng (sau Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh) và đứng thứ 14 cả nước. Tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng trong GRDP năm chiếm 46,14%, các ngành dịch vụ chiếm 22,34%, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 5,45%. Thu ngân sách đạt 31.430 tỷ đồng, đạt 113,08% dự toán22. Đến tháng 5-2020, toàn tỉnh có 3/9 huyện, thành phố và 109/112 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới23 .

Quá trình xây dựng và phát triển kể từ khi tái lập tỉnh đến nay (1997-2020), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã phát huy được tiềm năng thế mạnh của tỉnh, trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, chủ động đề ra được các chủ trương biện pháp phát triển kinh tế-xã hội phù hợp. Trên cơ sở đó, kinh tế-xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc đã có bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực. Từ một địa phương thuần nông, Vĩnh Phúc đã trở thành tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong tốp đầu của cả nước; giá trị sản xuất công nghiệp lớn, là trung tâm sản xuất ô tô, xe máy hàng đầu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin có nhiều chuyển biến tích cực; an ninh quốc phòng được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, trong đó, diện tích nhà ở của nhân dân đạt 29,1 m2/người, đứng thứ hai so với các tỉnh, thành phố trong cả nước24. Chặng đường xây dựng và phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh đến nay nền tảng, cơ sở để Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất trong dịp đầu năm 2020.

 

 Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 7/2020

1, 2, 3, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 15. Xem: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb CTQG, H, 2007, tr. 353, 355, 356, 565-567, 569- 570, 567-568, 590

4. Tháng 12-1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 224-TT/TW “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất ở ở một số địa phương”

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 29, tr. 544, 545, 571, 571, 571,

7. Tỉnh Vĩnh Phúc: Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, tháng 11-1997, tr. 29

14, 16. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc: Văn kiện Đại hội Đảng hộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII, tháng 3-2001, tr. 53-54, 105

17. Trang thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, cập nhật ngày 10-12-2005, tại địa chỉ https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/ThoiSuChinhTri/View_Detail.aspx?ItemID=777

18, 19. Trang thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, cập nhật ngày 15-10-2010, tại địa chỉ https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/HeThongChinhTriTinh/tinhuy/Lists/NghiQuyet/View_Detail.aspx?ItemID=8

20, 21. Báo Vĩnh Phúc điện tử: “Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ 16”, tại địa chỉ: http://baovinhphuc.com.vn/xay-dung-dang/22974/du-thao-bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-dang-bo-tinh-khoa-xv--tai-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-tinh-lan-thu-xvi.html, ngày 13-8-2015

22. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc: “Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Vĩnh Phúc năm 2019”, http://vinhphuc.gov.vn/ngthongke/2003/2019/index.htm

23. Trang thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc: “Xây dựng nông thôn mới tỉnh Vĩnh Phúc”, tại địa chỉ: http://ntmoi.vinhphuc.gov.vn/Pages/Default.aspx

24. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc: “Tổng kết Tổng điểu tra dân số và nhà ở năm 2019” , tại địa chỉ:  http://thongkevinhphuc.gov.vn/bvct/thong-ke-vinh-phuc/518/tong-ket-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019.html.