Tóm tắt: Di sản văn hóa phi vật thể là nguồn tài nguyên quý, góp phần tạo nên giá trị hình ảnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Với truyền thống lịch sử lâu đời cùng vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, Hà Nội là nơi lưu giữ những di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đặc sắc. Trong những năm 2010-2020, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá phi vật thể là một trong những nhiệm vụ được thành phố Hà Nội đặc biệt quan tâm, lãnh đạo, nhằm nuôi dưỡng, lưu truyền bản sắc văn hóa dân tộc, khẳng định vị thế “Thủ đô di sản” trong xây dựng, phát triển. Từ chủ trương, quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện đến những kết quả cơ bản đạt được cùng những kinh nghiệm được đúc kết từ thực tiễn đã thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội trong việc bảo tồn, phát huy, gìn giữ và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam, của Thủ đô Hà Nội.
Từ khóa: Đảng bộ Hà Nội; bảo tồn; di sản văn hóa phi vât thể
1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
Hà Nội là trung tâm hội tụ và tỏa sáng văn hóa dân tộc, với sự giàu có, đa dạng về các loại hình di sản văn hóa (DSVH) vật thể và phi vật thể. Trong đó, tổng số DSVH phi vật thể ở Hà Nội có 1.793 di sản1, được phân loại theo các loại theo 6 nhóm: Nhóm các lễ hội truyền thống, là loại hình có nhiều di sản nhất với 1.206 DSVH phi vật thể chiếm 67,6%;nhóm các tập quán xã hội với 213 di sản, chiếm 11,7%; nhóm các làng nghề thủ công truyền thống có 175 lễ hội, tập quán, làng nghề chiếm, 9,7%; nhóm tri thức dân gian (tri thức về y học, cách chữa bệnh bằng thuốc nam và chữa mẹo, tri thức về trồng hoa cây cảnh) với 106 di sản, chiếm 5,9%; nhóm nghệ thuật trình diễn với 79 di sản, chiếm 4,5%; nhóm ngữ văn dân gian có 14 di sản, chiếm 0,7%2.
Hà Nội dẫn đầu cả nước với 18 DSVH phi vật thể cấp quốc gia, như: Lễ hội, tri thức dân gian, di sản truyền khẩu, nghệ thuật trình diễn, tập quán xã hội... Trong 18 di sản được đưa vào danh mục, chiếm số lượng lớn nhất là loại hình lễ hội, với 11 di sản; tiếp đó là các nghi lễ và tập quán xã hội, với các nghi lễ, tập quán nổi bật như: kéo co ngồi (đền Trấn Vũ, quận Long Biên), kéo mỏ (đền Vua Bà, huyện Sóc Sơn), hát và múa Ải Lao (thôn Hội Xá, quận Long Biên), tục thờ Tản Viên Sơn Thánh ở Ba Vì. Nghệ thuật trình diễn có ca trù và và nghề truyền thống có nghề cốm ở Mễ Trì (quận Nam Từ Liêm).
Để lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, bao gồm cả DSVH vật thể và phi vật thể, Đảng bộ Thành phố đề ra chủ trương, giải pháp nhằm huy động sự tham gia rộng rãi, đông đảo các lực lượng vào hoạt động bảo tồn, phát huy DSVH. Nghị quyết lần thứ XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2010-2015, khẳng định: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm cho những nét đặc trưng tiêu biểu của văn hóa người Hà Nội thấm sâu trong đời sống tinh thần của nhân dân... Từng bước thu hẹp khoảng cách đời sống văn hóa giữa các địa bàn dân cư, giữa đô thị và nông thôn, vùng xa trung tâm. Phát triển các hoạt động, dịch vụ văn hóa hợp lý. Làm tốt hơn nữa công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản lịch sử, văn hóa. Phát triển du lịch và thông tin đối ngoại nhằm quảng bá sâu rộng các giá trị văn hóa Thăng Long-Hà Nội tới nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế3.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV, ngày 18-4-2011, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 04-CT/TU “Về phát triển văn hóa-xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2011-2015” nhấn mạnh: Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản văn hóa tiêu biểu của Thủ đô; phục hồi, phát huy có chọn lọc các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng tiêu biểu, một số lễ hội truyền thống, các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian. Hoàn thành dự án điều tra, thống kê phân loại, đánh giá hệ thống di sản Thủ đô. Xây dựng cơ chế tạo nguồn lực phục vụ tôn tạo, tu bổ hệ thống di tích đang xuống cấp. Xây dựng và triển khai đề án tổng kiểm kê khoa học văn hóa phi vật thể Hà Nội, đề cử danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia4.
Tiếp đó, ngày 13-7-2012, HĐND Thành phố Hà Nội ban hành Nghị quyết số 11 “Về việc quy hoạch phát triển văn hóa Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, chỉ rõ: Phấn đấu đến năm 2015, đạt 70% khối lượng kiểm kê các DSVH phi vật thể của các quận, huyện, thị xã, đến năm 2020, cơ bản hoàn thành việc kiểm kê trên toàn Thành phố.
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ và nghị quyết của HĐND Thành phố, ngày 28-8-2013, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 5924/QĐ-UBND “Về việc thành lập Ban Kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể Thành phố Hà Nội, giai đoạn 2013-2015”, nhằm thống kê, đánh giá các DSVH phi vật thể trên địa bàn, từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH phi vật thể. Ngày 9-12-2013, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 7456/QĐ-UBND “Về việc phê duyệt Đề án tổng kiểm kê, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội”, giao cho Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch (nay là Sở Văn hóa-Thể thao Hà Nội) thực hiện Đề án. Quá trình thực hiện có sự tham gia của các chuyên gia thuộc các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu như: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Viện Âm nhạc-Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Viện Văn hóa (Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Nghiên cứu văn hóa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, Hội Di sản văn hóa Thăng Long-Hà Nội, Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình Việt Nam, v.v..
2. Một số kết quả bước đầu
Dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng bộ, chính quyền Thành phố, công tác bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hà Nội là địa phương đầu tiên trên cả nước thực hiện công tác tổng kiểm kê và ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh. Nhiều lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian, nghệ thuật trình diễn, bí quyết nghề cổ truyền, văn hóa ẩm thực, làng nghề, phố nghề, chợ, tín ngưỡng, tôn giáo... có giá trị tiêu biểu được khôi phục, bảo tồn và phát huy. Thành phố đã lựa chọn, ưu tiên bảo vệ các DSVH phi vật thể như: hội đình Chèm, phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm; hội đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ; hội đền Và ở phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây; hội đình Lưu Xá, xã Hòa Chính, huyện Chương Mỹ và nghệ thuật trình diễn Hát và Múa Ải Lao, phường Phúc Lợi, quận Long Biên; nghề thêu phục chế ở thôn Đông Cứu, xã Dũng Tiến, huyện Thường Tín. Trong số các DSVH phi vật thể trên, Hội đình Chèm, nghệ thuật trình diễn Hát và Múa Ải Lao và nghệ thuật trình diễn Bơi Chải ở Hội đình Lưu Xá là những di sản quý cần có sự quan tâm đặc biệt của các cấp chính quyền và cộng đồng dân cư để bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH phi vật thể này. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã phối hợp địa phương xây dựng các biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị. Hiện nay, tất cả 18 di sản đều được bảo tồn, phát huy giá trị, trong đó, một số di sản đã trở thành sản phẩm du lịch, có giá trị lan tỏa và đem lại hiệu quả kinh tế cho người dân địa phương. Điển hình là việc bảo tồn hát và múa Ải Lao, Sở Văn hóa và Thể thao đã phối hợp các nhà khoa học, chính quyền địa phương kết hợp kiến thức của người dân với tài liệu khoa học, chỉnh lý, hoàn thiện lại múa, hát Ải Lao rồi dạy lại cho người dân. Nhờ vậy, một số bài hát, động tác múa tưởng chừng bị mất, hay bị thay đổi nay đã được khôi phục gần với nguyên gốc.
Ca trù-một di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, tại Hà Nội, trong những năm qua, Thành phố có nhiều biện pháp hỗ trợ cho các giáo phường, câu lạc bộ ca trù trên địa bàn. Một trong những hoạt động nổi bật nhất của công tác bảo tồn ca trù là việc tư liệu hóa toàn bộ các thể cách, các bài hát, tri thức của các câu lạc bộ, các giáo phường trên địa bàn bằng cả ghi âm, ghi hình. Ðây là biện pháp “phòng xa”, khi nhiều nghệ nhân ca trù đã cao tuổi. Với kho dữ liệu đồ sộ hiện có, thế hệ sau này vẫn có cơ sở để học hỏi, khôi phục. Hà Nội hiện có nhiều câu lạc bộ, giáo phường ca trù hoạt động tốt như: Giáo phường Ca trù Thăng Long, Giáo phường Ca trù Lỗ Khê, Giáo phường Ca trù Thái Hà, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội..., chưa kể nhiều nhóm ca trù khác với hàng trăm nghệ nhân. Tại Liên hoan Ca trù toàn quốc 2018 tổ chức tại Hà Tĩnh, đoàn Hà Nội đoạt bảy giải cá nhân, giành giải nhất toàn đoàn. Hà Nội cũng là đoàn duy nhất tham dự ở tất cả các nội dung thi của Liên hoan Ca trù.
Loại hình lễ hội, nghi lễ các lễ hội được đưa vào danh mục đều được bảo tồn tốt hơn, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của cộng đồng. Một số lễ hội và các nghi thức như tục thờ Tản Viên Sơn Thánh ở Ba Vì, lễ hội Thánh Gióng (ở Sóc Sơn và Gia Lâm), lễ hội đền Hai Bà Trưng (huyện Mê Linh)..., mỗi năm thu hút hàng chục nghìn khách.
Từ năm 2012 đến năm 2015, Thành phố đã xây dựng thành công cơ sở dữ liệu, số hóa công tác quản lý về tên đường, phố Thủ đô qua các thời kỳ; năm 2015 hoàn thành hồ sơ đề cử danh mục DSVH phi vật thể cấp quốc gia cho các di sản tiêu biểu; lập danh sách nghệ nhân dân gian gắn liền với từng loại hình DSVH phi vật thể; xây dựng cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể; xây dựng Trung tâm nghiên cứu Hà Nội học, Trung tâm Bảo tồn truyền thống văn hóa, Trung tâm Biểu diễn nghệ thuật văn hóa dân gian Hà Nội.
Công tác tuyên truyền, quảng bá các loại hình DSVH phi vật thể được Đảng bộ Hà Nội chỉ đạo tích cực với sự tham gia của nhiều sở, ban, ngành và cơ quan, trường học, nhân dân trên địa bàn. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội triển khai dự án “Giáo dục di sản văn hóa phi vật thể cho học sinh phổ thông tại Thành phố Hà Nội”, đưa 4 loại hình DSVH phi vật thể lồng ghép vào các môn vật lý và hóa học bậc trung học cơ sở. Xây dựng, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương Hà Nội dành cho học sinh ở bậc phổ thông để giới thiệu DSVH Thăng Long-Hà Nội. Nhà hát Chèo Hà Nội thực hiện thành công các dự án bảo tồn nghệ thuật chèo truyền thống, phát huy công tác giáo dục, tuyên truyền về nghệ thuật chèo thông qua chương trình “Sân khấu học đường”; Đề án “Giới thiệu và trình diễn nghệ thuật truyền thống vào sân khấu học đường” để học sinh hiểu biết về nghệ thuật sân khấu dân tộc. Các đơn vị nghệ thuật Hà Nội tham gia nhiều chương trình hợp tác, giao lưu về văn hóa, DSVH với các nước trên thế giới. Các loại hình nghệ thuật dân gian: ca trù, hát xẩm, hát văn, rối nước... thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc tế. Khách du lịch đến Hà Nội hầu hết đều xem biểu diễn rối nước tại Nhà hát múa rối Thăng Long, hay các chương trình biểu diễn ca trù của Câu lạc bộ Ca trù Thăng Long, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội...
Để công tác bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể có hiệu quả, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hà Nội chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác văn hóa từ thành phố đến cơ sở, có chính sách đãi ngộ phù hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, nhà trường với một số cơ quan và doanh nghiệp để đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân lực sau đào tạo. Thành phố đặc biệt quan tâm bố trí định biên cán bộ văn hóa và trích ngân sách cho công tác đào tạo cán bộ văn hóa xã, phường, thị trấn.
Hằng năm, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch (nay là Sở Văn hóa-Thể thao), Ban quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cho cán bộ làm công tác văn hóa quận, huyện, thị xã. Mở các lớp tập huấn cho cán bộ văn hóa từ thành phố tới cơ sở, những người nắm giữ DSVH phi vật thể và cách nhận diện DSVH phi vật thể, trong đó tập trung chuyên sâu về phương pháp kiểm kê DSVH phi vật thể. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, nâng cao trình độ và thái độ phục vụ của thuyết minh viên, hướng dẫn viên.
Thực hiện tinh giản tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ làm công tác chuyên môn về DSVH giảm về số lượng, song vẫn thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị DSVH, tăng cường lan tỏa các giá trị văn hóa của Thủ đô đến với nhân dân cả nước và thế giới. Bên cạnh những thành tích đạt được, công tác bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể ở Hà Nội còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập trong quản lý, tổ chức lễ hội; đội ngũ cán bộ chuyên về công tác DSVH từ phường, xã, quận, huyện đến thành phố còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, bất cập cả về trình độ, năng lực chuyên môn và phương pháp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác bảo tồn, phát huy giá trị DSVH chưa được quan tâm đúng mức. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác bảo tồn DSVH còn nhiều điểm chưa hợp lý...
Từ quá trình lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Đảng bộ thành phố Hà Nội những năm 2010-2020, đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị góp phần xây dựng Thủ đô Hà Nội văn hiến, là trung tâm chính trị, văn hóa đầu tàu của cả nước.
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 7/2020
1, 2. Hội di sản văn hóa Việt Nam-Trung tâm nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa: “Báo cáo kết quả thực hiện đề án tổng kiểm kê bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội giai đoạn 2013-2015”. Tài liệu lưu tại Thành ủy Hà Nội
3. Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XV, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 38-39
4. Thành ủy Hà Nội: “Chương trình về “Phát triển văn hóa-xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2011-2015”. Tài liệu lưu tại Thành ủy Hà Nội.