Tóm tắt: Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi có bề dày lịch sử hơn một nghìn năm văn hiến và truyền thống cách mạng vẻ vang, là địa danh tiêu biểu cho truyền thống “Văn hiến - Anh hùng - Hòa bình - Hữu nghị” của dân tộc Việt Nam. Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị và văn hóa, mà còn là một trong những đầu tàu kinh tế quan trọng của đồng bằng Bắc Bộ và cả nước. Trong những năm 2000-2020, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, kinh tế tư nhân của Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô.
Từ khóa: Đảng bộ Thành phố Hà Nội; kinh tế tư nhân; 2000-2020
1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế tư nhân
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII nhiệm kỳ (2000-2005) đã xác định phương hướng phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) là: “Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình phát triển… phát triển mạnh các thành phần, loại hình kinh tế”1. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ Thành phố và cụ thể hóa Nghị quyết số 14-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm BCHTƯ Đảng khóa IX ngày 18-3-2002 “về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, ngày 31-7-2002, Thành ủy Hà Nội ban hành Đề án số 18-ĐA/TU “về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân của Thành phố Hà Nội (2002-2005)”. Đề án chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN trên địa bàn thành phố để khu vực kinh tế này đóng góp nhiều hơn vào phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội, cùng với các thành phần kinh tế khác đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô, đưa kinh tế Thủ đô hội nhập an toàn, hiệu quả với kinh tế khu vực và thế giới”2. Mục tiêu phát triển KTTN trong 5 năm tới là: “Tạo động lực cho việc phát huy nội lực của kinh tế tư nhân, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực phát triển các ngành nghề có lợi thế, phối hợp với các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế Thủ đô tăng trưởng nhanh và bền vững. Khuyến khích kinh tế tư nhân nâng cao trình độ, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, chú trọng phát triển các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động”3. Đề án nêu rõ: Tiếp tục tuyên truyền, thông tin, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN trong phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng chính sách đối xử bình đẳng đối với KTTN, tạo niềm tin và phát huy khả năng đóng góp của KTTN; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ và khuyến khích KTTN phát triển; tăng cường quản lý nhà nước và kiện toàn hoạt động của các tổ chức xã hội hỗ trợ cho KTTN phát triển…
Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hà Nội đã chỉ đạo các sở, ban, ngành các cấp cụ thể hóa thành những chính sách, chủ trương cụ thể. UBND thành phố chỉ đạo Sở Văn hóa - Thông tin, Báo Hà Nội mới, Báo Kinh tế và Đô thị, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội… tổ chức tuyên truyền sâu rộng Đề án số 18 của Thành ủy, nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN từ đó tạo niềm tin và phát huy khả năng đóng góp của KTTN trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Để tạo lập môi trường thuận lợi cho KTTN phát triển, ngày 4-3-2002, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt “Kế hoạch thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010”, trong đó xác định: “Mục tiêu đến năm 2010, hoàn thành về cơ bản việc cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận tiện, không còn phiền hà sách nhiễu, trước hết đối với các thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh, đến đầu tư xây dựng cơ bản, đến việc giao, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; hoàn thiện về cơ bản thể chế quản lý nhà nước trên địa bàn theo luật định và theo sự chỉ đạo của Chính phủ”4. Thành ủy đã chỉ đạo UBND thành phố và các sở, ban, ngành có liên quan: “Mở rộng các hình thức, sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn với chính sách ưu đãi…”5.
Để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế nói chung và KTTN nói riêng, Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 09-CTr/TU “về giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc giai đoạn 2001-2005”, trong đó xác định mục tiêu: “Phấn đấu thực hiện mỗi năm tăng 2% - 3% tỷ lệ lao động qua đào tạo, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 34% năm 2000 lên 40-50% vào năm 2005. Bình quân hàng năm đào tạo nghề cho 5,4 vạn người (trong đó công nhân kỹ thuật dài hạn là 1,7 vạn người”6. Thành phố cũng ban hành các chính sách đãi ngộ đối với việc chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân; đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động của thành phố; hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn tại các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên. UBND thành phố cùng với Hiệp hội Công thương, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội... tăng cường công tác xúc tiến, hỗ trợ đào tạo giám đốc kinh doanh, tư vấn, trao đổi kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trên địa bàn thành phố… Thành ủy Hà Nội chỉ đạo: “Nghiên cứu phân cấp cho các quận, huyện giải quyết đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sớm có quy chế quản lý đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sau khi cấp đăng ký kinh doanh…”7. Trên cơ sở đó, ngày 6-8-2002, UBND thành phố ban hành Chỉ thị số 27/2002/CT-UB “về tăng cường công tác quản lý và chống thất thu thuế công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội”. UBND thành phố chỉ đạo Cục Thuế Hà Nội phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư rà soát, bảo đảm các doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải đăng ký kê khai nộp thuế đầy đủ, đúng quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng...
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (khóa XIII) đã tập trung thảo luận, kiểm điểm sau hơn 2 năm thực hiện Đề án số 18 và đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển KTTN trong thời gian tiếp là: “Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là các thủ tục đầu tư và xây dựng; xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân về tín dụng, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường, mặt bằng sản xuất, đào tạo cán bộ, cung cấp thông tin... để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ và các cụm sản xuất làng nghề, giải quyết vấn đề bức xúc về mặt bằng sản xuất của các doanh nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đô thị, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực ngoại thành. Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường chất lượng hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp; xây dựng các Hiệp hội thực sự trở thành cầu nối giữa các cấp chính quyền và các doanh nghiệp. Tăng cường công tác khen thưởng, tôn vinh các doanh nghiệp, các doanh nhân sản xuất kinh doanh giỏi”8.
Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010, đề ra phương hướng tiếp tục phát triển KTTN và chỉ rõ: “Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Thủ đô trên cơ sở xây dựng các thể chế thị trường và hoàn thiện cơ chế chính sách minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Củng cố quan hệ sản xuất, phát triển mạnh các thành phần kinh tế… tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân”9.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan theo Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29-5-2008 của Quốc Hội, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015 tiếp tục đề ra chủ trương phát triển KTTN: “Đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế. Tạo môi trường phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”10.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XV, Thành ủy Hà Nội ban hành: Chương trình số 02-CTr/TU “về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015”; Chương trình số 03-CTr/TU “về tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế Thủ đô tăng trưởng nhanh và bền vững”, trong đó đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTTN, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển KTTN, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, xác định phương hướng phát triển KTTN là: “Đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp... khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đồng thời có những chính sách ưu đãi về vốn sản xuất, đất đai…”11. Đặc biệt, ngay sau khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chương trình số 18-CTr/TU, ngày 1-9-2017 “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thành ủy xác định mục tiêu: phấn đấu đạt được các chỉ tiêu, cụ thể: Hằng năm có khoảng 30-35% doanh nghiệp tư nhân có hoạt động đổi mới sáng tạo; năng suất lao động tăng 4-5%/năm; thành lập mới 200.000 doanh nghiệp trong giai đoạn 2016 - 2020. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu12.
Cụ thể hóa Chương trình số 18-CTr/TU, ngày 2-3-2018, UBND thành phố Hà Nội đã xây dựng và ban hành Kế hoạch số 53/KH-UBND để tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, các ban, sở, ngành và chính quyền các cấp đã chú trọng đến công tác hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khu vực tư nhân phát triển, coi “Doanh nghiệp là động lực và chìa khóa phát triển bền vững kinh tế của Thủ đô”.
2. Một số kết quả
Một là, kinh tế tư nhân đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Trong giai đoạn 2000-2005, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 11,1% (vượt chỉ tiêu Đại hội XIII là 10-11%/năm), trong đó khu vực KTTN tăng trưởng đạt 12,3%/năm13, tỷ trọng chiếm khoảng 21,8% GDP; đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Giai đoạn 2015-2020, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 7,39%, đạt mục tiêu đề ra (từ 7,3-7,8%)14, trong đó khu vực KTTN có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp hơn 50% vào GRDP của Thủ đô, tăng hơn 1,2 điểm % so với năm 2015, giải quyết khoảng 83% lao động xã hội15. Đến năm 2020, quy mô GRDP đạt 1,06 triệu tỷ đồng, khoảng 45 tỷ USD; GRDP bình quân đầu người đạt 5.420 USD, tăng 1,5 lần so với năm 2015, gấp 1,8 lần bình quân cả nước16. Đạt được kết quả này, thành phần KTTN luôn đổi mới, sáng tạo, là lực lượng tiên phong đi đầu, chiếm tỷ lệ đóng góp cao nhất trong các thành phần kinh tế của Thủ đô. KTTN của Hà Nội liên tục tăng qua các năm, nếu như giai đoạn 1996-2000, tổng số nộp ngân sách nhà nước của KTTN đạt 11.654 tỷ đồng17, thì riêng năm 2011, KTTN đã đóng góp 14.104 tỷ đồng. Đến năm 2020, KTTN đã đóng góp cho ngân sách nhà nước 48.490 tỷ đồng (cao gấp hơn 4 lần trong giai đoạn 1996-2000)18.
Hai là, kinh tế tư nhân góp phần trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân. KTTN đã góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động lớn của Thủ đô: năm 2000 đã thu hút 610.000 người (gần bằng 48% tổng lao động toàn xã hội)19; năm 2010 là 1.031.406 người; năm 2015 đã giải quyết việc làm cho 2.797.898 người; năm 2018 là gần 4.000.000 người20; năm 2020, tình hình việc làm có nhiều biến động do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhưng KTTN đã giải quyết việc làm cho 4.043.000 lao động21. Các DNTN, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu nhập ổn định và tương đối cao: trước năm 2000 thu nhập trung bình của người lao động trong khu vực KTTN đạt từ 500.000-650.000 đồng/người/tháng; năm 2010, thu nhập bình quân của lao động trong khu vực KTTN đạt 1.150.000 đồng/người/tháng. Đến năm 2015, thu nhập trung bình của người lao động trong khu vực KTTN có bước tăng vượt bậc, đạt gần 5.000.000 đồng/người/tháng và năm 2020 đạt gần 10.000.000 đồng/người/tháng22. Thu nhập tăng nhanh đã góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của toàn xã hội nói chung và người dân Thủ đô nói riêng.
Năm 2010, toàn thành phố có 303.813 hộ kinh tế cá thể, tiểu chủ với 585.186 lao động; năm 2015, có 358.489 hộ với 676.745 lao động; năm 2020 tăng lên 435.373 hộ với 786.390 lao động. Số vốn đăng ký kinh doanh của các đơn vị kinh tế cá thể, tiểu chủ cũng không ngừng tăng lên: năm 2010 đạt 1.424 tỷ đồng; năm 2015 đạt 6.564 tỷ đồng; đến năm 2020 tăng lên 14.750 tỷ đồng. Đặc biệt, kinh tế trang trại của Hà Nội từ năm 2000 - 2020 phát triển cả về số lượng và chất lượng. Theo Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn Hà Nội, đến năm 2020, toàn thành phố có hơn 2.800 trang trại các loại, trong đó có: 70 trang trại trồng trọt, gần 2.000 trang trại chăn nuôi, hơn 400 trang trại nuôi trồng thủy sản và khoảng 300 trang trại tổng hợp. Các chủ trang trại đã quan tâm đầu tư áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp do vậy doanh thu đạt khoảng 5.000 tỷ đồng mỗi năm, thu hút lao động thường xuyên hơn 11.000 người23. Kinh tế trang trại đã trực tiếp góp phần thay đổi diện mạo nông thôn Hà Nội, tăng thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn: năm 2015 đạt 33 triệu đồng/người/năm; năm 2020 đạt 55 triệu đồng/người/năm, gấp 1,6 lần năm 201524.
Ba là, kinh tế tư nhân góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. KTTN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Nhiều đơn vị KTTN hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, tài chính, bất động sản và du lịch… đã phát triển mạnh mẽ, góp phần thay đổi cấu trúc kinh tế thành phố. Cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp của Hà Nội qua các năm lần lượt là: năm 2000 (38%, 58,2%, 3,8%); năm 2010 (41%, 52,8%, 6,2%); năm 2020 (23,23%, 63,48%, 2,09%)25. “Kinh tế tư nhân phát triển mạnh ở các ngành dịch vụ và công nghiệp làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, theo hướng hiện đại, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng, khu vực nông nghiệp giảm còn 2,09%26.
Cùng với những lợi ích về kinh tế, KTTN của Hà Nội đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo, KTTN luôn đổi mới công nghệ, áp dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tăng tính cạnh tranh trên thị trường… Ngoài ra, KTTN còn thu hút, sử dụng lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Thủ đô, giảm sức ép cho xã hội. Các DNTN đã gắn chặt với cộng đồng dân cư, giữ vai trò quan trọng trong xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, trong xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2018 chỉ còn 1,16%, về đích trước hai năm mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2016 - 202027, là nhân tố nòng cốt xây trong phong trào xây dựng dựng nông thôn mới, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở.
Trong những năm 2000-2020, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển KTTN, kịp thời ban hành những cơ chế, chính sách cụ thể để phát huy nội lực, khai thác những tiềm năng thế mạnh của Thủ đô, tạo môi trường thuận lợi cho KTTN phát triển. Với sự đồng lòng, vào cuộc của chính quyền và sự ủng hộ, hưởng ứng của nhân dân, KTTN của Hà Nội đã có sự bứt phá mạnh mẽ, thực sự là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm thay đổi diện mạo Thủ đô ngày càng đổi mới, văn minh, hiện đại.

Ngày nhận: 16-9-2024 ; ngày thẩm định, đánh giá: 25-2-2025; ngày duyệt đăng: 28-2-2025
1. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, H, 2001, tr. 69
2, 3, 19. Thành ủy Hà Nội: Đề án số 18-ĐA/TU ngày 31-7-2002 “về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân của Thành phố Hà Nội (2002-2005)”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
4. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội: Quyết định số 34/2002/QĐ-UBND ngày 3-4-2002 về việc “Phê duyệt kế hoạch thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010”, lưu trữ Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội.
5. Thành ủy Hà Nội: Chương trình số 09-CTr/TU ngày 24-8-2001 “về giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc giai đoạn 2001 – 2005”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
6. Thành ủy Hà Nội: Chương trình số 13-CTr/TU ngày 8-11-2001 “về tiếp tục củng cố, đổi mới quan hệ sản xuất, phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
7. Thành ủy Hà Nội: Báo cáo kiểm điểm sau hơn 2 năm thực hiện Đề án số 18-ĐA/TU ngày 31-7-2002 “về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
8, 9. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, H, 2006, tr. 67
10. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, H, 2010, tr. 86
11. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, H, 2015, tr. 90
12. Thành ủy Hà Nội: Chương trình số 18-CTr/TU ngày 1-9-2017 “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
13. Thành ủy Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2006 - 2010, Nxb Hà Nội, H, 2006, tr. 32
14, 16, 22, 24, 25, 26, 27. Thành ủy Hà Nội: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ Thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nxb Thông tấn, H, 2020, tr. 41, 183, 50,1 84
15, 21. Cục Thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê thành phố Hà Nội năm 2020, Nxb Thống kê, H, 2021
17. Thành ủy Hà Nội: Báo cáo số 131-BC/TU ngày 16-1-2002 “về tóm tắt nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
18. Thành ủy Hà Nội: Báo cáo số 202-BC/TU ngày 4-3-2022 “về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW, ngày 6-1-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
20. Thành ủy Hà Nội: Báo cáo số 377-BC/TU ngày 20-11-2018 “về tổng kết việc thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển tổ chức đảng, đảng viên ở các đơn vị kinh tế ngoài khu vực kinh tế nhà nước”, lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội
23. Xem: “Dấu ấn kinh tế trang trại ở Hà Nội, https://daibieunhandan.vn/dau-an-kinh-te-trang-trai-o-ha-noi-post250847.html, ngày đăng 31-8-2020.