Tóm tắt: Tỉnh Hà Nam nằm trong top 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về chất lượng giáo dục và đào tạo. Để hoàn thành mục tiêu xây dựng tỉnh trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, trên cơ sở những kết quả quan trọng đã đạt được trong giai đoạn 2010-2024, tỉnh Hà Nam tiếp tục triển khai đồng bộ nhiều giải pháp có trọng tâm, trọng điểm về phát triển giáo dục phổ thông đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy kinh tế-xã hội của địa phương phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Từ khóa: Giáo dục và đào tạo; giáo dục phổ thông; tỉnh Hà Nam

1. Thực trạng giáo dục phổ thông ở tỉnh Hà Nam trong những năm 2010-2024

Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của tất cả các quốc gia, dân tộc trong mọi thời đại. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đảng đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”1, là “động lực then chốt để phát triển đất nước”2. Trong đó, giáo dục phổ thông (GDPT) được coi là “nền tảng”, “bản lề” của hệ thống giáo dục quốc dân; là nhân tố quan trọng phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ; là nền tảng hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, Đại hội XIII (2021) của Đảng chủ trương tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế-xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”3. Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết mang tính bao quát, toàn diện, hướng dẫn các cấp, các ngành nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nói chung trong đó có GDPT, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Trong đó, có nhiều văn bản chỉ đạo chiến lược, thể hiện quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, đáng chú ý như: Nghị quyết số 08-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hà Nam đến năm 2020 (26-10-2011); Chương trình hành động số 64-Ctr/TU thực hiện Nghị quyết về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế (20-1-2014); Nghị quyết số 04-NQ/TU Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XX nhiệm kỳ 2020-2025 (22-9-2020)... Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh Hà Nam còn quan tâm lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho đổi mới giáo dục và đào tạo, tập trung mọi nguồn lực cho đổi mới GDPT. Nhờ đó, sự nghiệp GDPT của Hà Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng:

Một là, chất lượng giáo dục phổ thông có nhiều chuyển biến tích cực

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của chính quyền địa phương, chất lượng GDPT của tỉnh Hà Nam đã có những khởi sắc, bứt phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ giáo dục đại trà, đến giáo dục mũi nhọn và thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) quốc gia. Từ năm 2010 đến nay, tỉnh Hà Nam đã chủ động, linh hoạt triển khai hiệu quả chương trình GDPT, đặc biệt là Chương trình GDPT mới 2018 theo đúng chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tỉnh Hà Nam là một trong 4 tỉnh đầu tiên được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Kết quả thi tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi quốc gia, thi và xét vào đại học, cao đẳng luôn đứng trong top 10 địa phương có thành tích cao. Trong 10 năm (2013-2023), các đội tuyển học sinh giỏi quốc gia của tỉnh đã đạt được 524 giải tại các kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia, trong đó có 14 giải nhất, 90 giải nhì, 176 giải ba, 244 giải khuyến khích; năm 2019, đạt Huy chương Bạc Olympic Vật lý quốc tế, Huy chương Đồng Olympic Vật lý châu Á; năm 2022, đạt Huy chương Vàng Olympic Hóa học quốc tế4. Kết quả thi tốt nghiệp THPT quốc gia của Hà Nam luôn duy trì và giữ ở mức cao. Năm 2017, Hà Nam là tỉnh dẫn đầu cả nước về điểm bình quân trong kỳ thi tốt nghiệp THPT. Năm học 2023-2024, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT của Hà Nam đạt 99,98%5. Phát huy truyền thống của quê hương “Hai tốt”, Hà Nam tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua trong toàn ngành.

Hai là, quy mô, mạng lưới trường, lớp phát triển đáp ứng yêu cầu dạy và học theo chương trình mới

Quán triệt chủ trương của Đảng về sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở GDPT phù hợp với nhu cầu và thực tế của mỗi địa phương, Đảng bộ tỉnh Hà Nam chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tiến hành rà soát, sắp xếp, tổ chức lại quy mô, mạng lưới trường, lớp theo hướng tinh gọn, hiệu quả theo nguyên tắc bảo đảm bố trí đủ sĩ số học sinh theo quy định ở từng cấp học, bậc học; xây dựng lộ trình sáp nhập, điều chuyển các trường tiểu học và THCS gần nhau, có quy mô vừa phải, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; việc sáp nhập các trường, lớp, dồn ghép các điểm trường bảo đảm đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Khi chưa tổ chức, sắp xếp lại quy mô, mạng lưới trường lớp, Hà Nam có 140 trường tiểu học, 120 trường THCS, 25 trường THPT (trong đó có 21 trường công lập và 4 trường dân lập). Sau khi sáp nhập, điều chuyển, năm 2024, Hà Nam có 117 trường tiểu học, 108 trường THCS, 23 trường THPT6. Số học sinh bình quân của một lớp được bố trí, sắp xếp hợp lý hơn: cấp tiểu học là 34 học sinh/lớp, THCS là 40 học sinh/lớp, THPT là 40 học sinh/lớp. Số học sinh bình quân trên một giáo viên tiểu học là 25 học sinh/giáo viên; cấp THCS là 24 học sinh/giáo viên; cấp THPT là 19 học sinh/giáo viên7. Nhờ bố trí hợp lý quy mô, mạng lưới trường, lớp nên việc quản lý, giảng dạy được thực hiện hiệu quả, cơ sở vật chất và trang thiết bị được đầu tư tập trung, bộ máy được sắp xếp tinh gọn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

Ba là, chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được nâng cao

Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”8; “đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”9.

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất, năng lực cho đội ngũ giáo viên bảo đảm đủ về cơ cấu, số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động để tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn ngành. Năm học 2023-2024, toàn ngành giáo dục Hà Nam có trên 12.038 người, trong đó có 888 cán bộ quản lý, 10.356 giáo viên và 794 nhân viên làm chuyên môn nghiệp vụ, trong hơn 90,5% cán bộ, giáo viên đạt chuẩn trở lên theo quy định của Luật Giáo dục năm 201910. Hà Nam còn chủ động sắp xếp, điều tiết giáo viên giữa các cơ sở giáo dục tại địa phương nhằm khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ; bố trí đủ giáo viên dạy các môn Ngoại ngữ, Tin học để triển khai Chương trình GDPT 2018 theo đúng lộ trình. Năm 2023, tỷ lệ giáo viên ở các cấp học được bảo đảm (ở tiểu học là 1,3 giáo viên/lớp, THCS là 1,6 giáo viên/lớp, THPT là 2,1 giáo viên/lớp), 100% các trường tiểu học và THCS được bố trí 1 giáo viên phụ trách công tác đoàn, đội11. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, giáo viên được nâng cao, đáp ứng yêu cầu về chuẩn trình độ theo quy định của Luật Giáo dục năm 2019. Hằng năm, ngành giáo dục tỉnh Hà Nam đã tổ chức thi tuyển, tuyển dụng viên chức, công chức hành chính theo đúng quy định. Nhờ đó, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được bổ sung thường xuyên, liên tục. Chất lượng đội ngũ giáo viên được tuyển dụng bảo đảm về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đồng bộ về cơ cấu.

Bốn là, cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư cho các hoạt động giáo dục được tăng cường

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của cơ sở vật chất, kinh phí đối với chất lượng GDPT, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã lãnh đạo các bộ phận chuyên môn tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho GDPT theo hướng kiên cố, hiện đại và đạt chuẩn quốc gia. Để hỗ trợ kinh phí cho phát triển GDPT, Hà Nam đã xây dựng các quy định về mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách và hỗ trợ kinh phí đặc thù. Nhờ đó, kinh phí dành cho phát triển GDPT được phân bổ theo đúng quy định, cơ bản đáp ứng các hoạt động thường xuyên. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhưng với sự đoàn kết, nỗ lực cao của các cấp, các ngành, việc đầu tư kinh phí cho phát triển GDPT được giữ vững và tăng cường. Qua đó, đến năm 2022, hệ thống trường lớp được đầu tư xây mới, tu sửa, nâng cấp đạt 99,5%, các trang thiết bị phục vụ dạy và học được đầu tư với khối lượng lớn. Bên cạnh đó, tỉnh Hà Nam còn tăng cường vốn đầu tư để nâng cấp, cải tạo cơ sở, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục, đẩy mạnh xây dựng trường chuẩn quốc gia. Nhờ đó, số lượng trường chuẩn quốc gia trên địa bàn tỉnh không ngừng tăng lên. Năm học 2021-2022, Hà Nam đã có 358/361 trường công lập đạt chuẩn quốc gia (đạt 99,17%)12.

Năm là, công tác xã hội hóa giáo dục được thực hiện hiệu quả

Xác định rõ tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục đối với việc đầu tư cơ sở vật chất, tạo dựng môi trường giáo dục hiện đại, đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Nam đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư nhằm huy động các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục như chính sách về thuê đất, thuế, hỗ trợ lãi suất để xây dựng trường học, cho vay vốn kích cầu, vận động toàn xã hội tích cực tham gia thực hiện xã hội hóa giáo dục. Nhờ đó, công tác xã hội hóa giáo dục của tỉnh Hà Nam phát triển mạnh, ngành giáo dục có điều kiện hoàn thiện cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị dạy học được đầu tư mua sắm đầy đủ, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Hiện nay, 100% các trường của huyện Kim Bảng, Bình Lục, Duy Tiên, Lý Nhân, Phủ Lý, Thanh Liêm đã xây dựng được nhà cao tầng. Ở một số địa phương, số tiền được huy động để xây dựng, kiên cố hóa trường, lớp từ các nguồn lực xã hội hóa lên tới hàng chục tỷ đồng, trong đó có 50% do nhân dân đóng góp. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, các trường học trên địa bàn tỉnh đã nhận được sự động viên, hỗ trợ kinh phí phòng chống dịch bệnh kịp thời từ các tổ chức, cá nhân. Nhờ đó, các nhà trường đã vượt qua khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học. Năm 2023, Hà Nam kêu gọi đầu tư 13 dự án xã hội hóa giáo dục tập trung ở thành phố Phủ Lý và thị xã Duy Tiên. Nhờ đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, chất lượng lượng GDPT của Hà Nam liên tục được giữ vững và nâng cao. Những kết quả đạt được trên đã thể hiện quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và toàn ngành giáo dục Hà Nam trong việc nâng cao chất lượng GDPT đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong bối cảnh mới.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, so với yêu cầu, nhiệm vụ của ngành, GDPT của Hà Nam còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: chất lượng giáo dục chưa toàn diện, chưa đồng đều giữa các vùng; công tác đổi mới GDPT còn nhiều khó khăn; việc tổ chức dạy học Ngoại ngữ, Tin học còn nhiều bất cập. Công tác quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường lớp ở một số địa phương chưa phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập về số lượng, chất lượng, cơ cấu và còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên ở một số cấp học, năng lực quản lý của một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên chưa tương xứng với trình độ đào tạo, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập chưa có bước chuyển biến rõ nét, một số đơn vị chưa sẵn sàng để tiến tới tự chủ về tài chính; xây dựng trường chuẩn quốc gia ở bậc THPT chưa đạt chỉ tiêu, nhiều trường còn thiếu phòng học bộ môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục không đồng bộ, lạc hậu về chất lượng, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT; công tác xã hội hóa GDPT còn hạn chế…

2. Một số giải pháp tiếp tục phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Hà Nam

Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại, tiếp tục đưa GDPT phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương, Hà Nam cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới theo chiều sâu, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông

Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và nhân dân địa phương về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đổi mới, nâng cao chất lượng GDPT. Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPT, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Hoàn thiện hệ thống GDPT theo hướng mở, người học học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, gắn với quy hoạch chung của cả nước. Trong quá trình nâng cao chất lượng GDPT, Hà Nam cần bảo đảm yếu tố “công bằng” trong tiếp cận giáo dục để các đối tượng học sinh khác nhau đều có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ giáo dục chất lượng. Chủ động xây dựng kế hoạch phát triển GDPT phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, vừa bảo đảm tính khoa học, sư phạm, vừa bảo đảm yêu cầu chuẩn đầu ra của Chương trình GDPT 2018. Tiếp tục đổi mới đồng bộ và mạnh mẽ chương trình GDPT ở tất cả các cấp học, bậc học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của người học; đẩy mạnh đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông gắn với định hướng nghề nghiệp và phân luồng trong GDPT. Đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo hướng hiện đại, đồng bộ với công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tăng cường khả năng tự học của học sinh. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đẩy mạnh các hoạt động trải nhiệm, nghiên cứu khoa học để tăng cường giáo dục kỹ năng sống, hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện “học đi đôi với hành”, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tăng cường ứng dụng các mô hình dạy học mới theo định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo để nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo, gia tăng tỷ lệ học sinh khá, giỏi, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho địa phương và cả nước. Tiếp tục đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục theo hướng thực chất và bền vững. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa gia đình-nhà trường-xã hội trong việc quản lý, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Tích cực đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng GDPT bảo đảm trung thực, khách quan nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.

Thứ hai, phát triển quy mô, mạng lưới giáo dục phổ thông trên cơ sở bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới

Rà soát, quy hoạch mạng lưới GDPT cân đối, phù hợp không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, tăng cường các hoạt động giáo dục, mà còn giúp học sinh và giáo viên có môi trường tốt để học tập, giảng dạy. Hơn nữa, việc sáp nhập, sắp xếp, bố trí quy mô, mạng lưới trường, lớp hợp lý còn giúp tiết kiệm chi phí đầu tư, tạo điều kiện để tập trung các nguồn lực cho công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, hướng tới hoàn thành mục tiêu đổi mới GDPT theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp tục rà soát sắp xếp lại mạng lưới, quy mô trường, lớp phù hợp để khắc phục tình trạng nhỏ lẻ, manh mún ở một số địa phương. Gắn công tác quy hoạch trường, lớp với bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Xây dựng lộ trình, kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các điểm trường, lớp hợp lý, bảo đảm chuẩn bị tốt tâm lý cho cả phụ huynh và học sinh. Ưu tiên dành quỹ đất, đầu tư cho các dự án xây dựng trường, lớp ở các vùng khó khăn, khu công nghiệp, khu đông dân cư. Chú trọng duy trì, phát triển số lượng lớp học, bổ sung phòng học kiên cố, bán kiên cố và giảm phòng học tạm hoặc mượn. Tăng cường dự báo tình hình tăng, giảm học sinh tại các địa phương trên địa bàn tỉnh để chủ động xây dựng kế hoạch, lộ trình phát triển quy mô, mạng lưới trường, lớp phù hợp với tình hình thực tế, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh cũng như thực hiện hiệu quả mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý giáo dục; đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục phổ thông

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý giáo dục là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng giáo dục. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, Hà Nam cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển GDPT; thường xuyên rà soát, kiểm tra, xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục; xây dựng các quy định về quản lý các cơ sở GDPT phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương. Chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí tuyên tuyền đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cán bộ, giáo viên và nhân dân hiểu rõ về Luật Giáo dục và những điểm mới của Chương trình GDPT 2018. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp (tỉnh, huyện, cơ sở). Hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý giáo dục các cấp theo hướng tập trung vào chức năng quản lý nhà nước. Tăng cường giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDPT trên địa bàn tỉnh. Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng phân cấp, phân quyền, trước hết là giao quyền chủ động trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục của các nhà trường. Đẩy mạnh cải cách hành chính về giáo dục và đào tạo. Xây dựng và ban hành quy chế kiểm tra, thanh tra, giám sát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách pháp luật. Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy học, nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao chất lượng GDPT; xây dựng và triển khai thống nhất các phần mềm hỗ trợ công tác quản lý, quản trị nhà trường; đưa vào sử dụng thống nhất cơ sở dữ liệu về GDPT; chú trọng xây dựng và sử dụng các văn bản điện tử trong hoạt động của ngành. Tăng cường bồi dưỡng năng lực tự đánh giá, kiểm định chất lượng trường học, năng lực quản lý tài chính, kỹ năng quản lý, sử dụng thiết bị dạy học. Đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong các trường học và các đơn vị quản lý giáo dục, thực hiện tốt chủ trương giám sát, phản biện xã hội. Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng theo hướng thiết thực, hiệu quả và đúng quy định. Tăng cường các biện pháp quản lý chất lượng tại các cơ sở GDPT; tăng cường công tác tự đánh giá nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục. Thường xuyên kiểm định, giám định chất lượng, minh bạch hóa, công khai hóa kết quả, chống tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục, thu hút các lực lượng xã hội tham gia giám sát, thanh tra, kiểm tra chất lượng.

Thứ tư, nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Vì vậy, Hà Nam cần quan tâm phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chú trọng công tác xây dựng kế hoạch, quy hoạch về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu thực tế, bảo đảm về cơ cấu, số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Triển khai hiệu quả các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chất lượng đội ngũ về phương pháp dạy học hiện đại. Tiếp tục thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý theo từng cấp học và trình độ, ngành nghề đào tạo và năng lực thực tế. Chú trọng bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên Ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình Ngoại ngữ hệ 10 năm. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp. Tiếp tục rà soát, điều chuyển cán bộ quản lý, luân chuyển giáo viên giữa các đơn vị nhằm đồng bộ hóa về cơ cấu, loại hình giáo viên, điều hòa chất lượng, bảo đảm biên chế theo đúng quy định. Thực hiện tinh giản biên chế, quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục hợp lý. Xây dựng kế hoạch, chính sách tuyển dụng giáo viên phù hợp để khắc phục tình trạng thừa, thiếu cục bộ. Thực hiện hiệu quả chính sách, chế độ ưu đãi với nhà giáo và cán bộ quản lý. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục phải dựa trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Thực hiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Xây dựng cơ chế đãi ngộ, thu hút giáo viên, cán bộ quản lý giỏi về tỉnh Hà Nam công tác. Có cơ chế đột phá trong bố trí, sử dụng nguồn nhân lực trẻ, được đào tạo cơ bản, tạo điều kiện cho công chức, viên chức trẻ được thăng tiến, bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đẩy mạnh thực hiện các mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo. Tăng cường công tác xã hội hóa trong việc lựa chọn, cử cán bộ quản lý và giáo viên Ngoại ngữ đi nước ngoài để tu nghiệp nâng cao năng lực.

Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học theo hướng hiện đại; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ trong giáo dục phổ thông

Cơ sở vật chất, thiết bị trường học là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo. Tỉnh Hà Nam cần tiếp tục xây dựng kế hoạch, lộ trình tổng thể trong việc triển khai công tác cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học đồng bộ với lộ trình đổi mới chương trình GDPT. Xây dựng các chương trình, đề án cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học, bảo đảm chất lượng giáo dục, ưu tiên các địa phương khó khăn, vùng dân tộc. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, tăng cường các nguồn lực xã hội hóa, nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển GDPT. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học cho tất cả các ngành học, bậc học, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT; kịp thời sửa chữa, cải tạo, nâng cấp hạ tầng, nhất là các phòng học bộ môn, thư viện của các trường đạt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thường xuyên cập nhật, giới thiệu các thiết bị dạy học mới. Bố trí đủ cán bộ chuyên trách quản lý trang thiết bị dạy học. Khai thác, sử dụng hiệu quả mạng Internet trong công tác quản lý và dạy học. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để huy động, thu hút các nguồn tài trợ, các dự án đầu tư cho phát triển GDPT. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong GDPT; tăng cường thực hiện các thủ tục hành chính thông qua dịch vụ công trực tuyến. Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng, kho học liệu số, bài giảng điện tử, hệ thống ngân hàng trực tuyến cho các môn học.

Thứ sáu, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục phổ thông

Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục là biện pháp thiết thực nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy phát triển GDPT. Vì vậy, Hà Nam cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên, nhân dân và toàn xã hội về giáo dục và đổi mới GDPT. Tăng cường, khuyến khích, huy động các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển các loại hình giáo dục công lập, đặc biệt là khu vực thành thị. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi cho các nhà đầu tư. Đổi mới việc phân bổ ngân sách nhà nước, ngân sách xã hội hóa giáo dục, tránh đầu tư dàn trải, tập trung ưu tiên cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ các đối tượng chính sách có hoàn cảnh khó khăn, cần sự trợ giúp của xã hội để có cơ hội học tập tốt hơn. Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác và đào tạo quốc tế để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho phát triển GDPT. Tăng cường thí điểm, áp dụng các mô hình giáo dục tiên tiến, chương trình giảng dạy. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết đào tạo với các trường quốc tế. Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho giáo viên, học sinh, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong các cơ sở giáo dục. Xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tới Hà Nam giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục.

Trong những năm 2010-2024, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam, công tác giáo dục phổ thông của Hà Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng vẫn còn những tồn tại hạn chế. Nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển GDPT đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới, tỉnh Hà Nam cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên.

Ngày gửi: 9-8-2024; Ngày thẩm định, đánh giá: 30-9-2024; Ngày duyệt đăng: 14-10-2024

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 130

2, 3, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 136, 136-137, 232, 138-139

4. Xem: Thanh Hà: “Dấu ấn giáo dục Hà Nam”, https://www.baohanam.com.vn/xa-hoi/giao-duc/dau-an-giao-duc-ha-nam-113170.html, ngày đăng: 2-2-2024

5, 6, 7, 11. Xem: Cục thống kê tỉnh Hà Nam: Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam 2023, Nxb Thống kê, H, 2024, tr. 535, 505, 505, 533

10. Xem: Thanh Hà: “Hà Nam chủ động trước thời cơ, mục tiêu giáo dục mới”, https://baohanam.com.vn/xa-hoi/giao-duc/ha-nam-chu-dong-truoc-thoi-co-muc-tieu-giao-duc-moi-114346.html, ngày đăng: 11-2-2024

12. Xem: Phạm Minh Hà: “Giáo dục Hà Nam vượt khó, phát triển”, https://dangcongsan.vn/giao-duc/giao-duc-ha-nam-vuot-kho-phat-trien-601317.html, ngày đăng: 4-1-2022.