Tóm tắt: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động xuất bản và nhất quán quan điểm lãnh đạo công tác xuất bản. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết về công tác xuất bản. Chỉ thị số 63-CT/TW, ngày 25-7-1990 của Ban Bí thư nhấn mạnh: “Sách, báo là công cụ rất quan trọng trên mặt trận tư tưởng, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”1. Trong những năm 1986-2001, Đảng giữ vững nguyên tắc lãnh đạo công tác xuất bản, bảo đảm phát triển đúng hướng; công tác xuất bản có những bước phát triển quan trọng, góp phần vào mặt trận tư tưởng-văn hóa, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đổi mới.
Từ khóa: Công tác xuất bản; mặt trận tư tưởng-văn hóa; thời kỳ đổi mới
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xuất bản
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng luôn xác định công tác xuất bản là một bộ phận trọng yếu, vừa là một nội dung vừa là phương tiện của công tác tư tưởng-văn hóa của Đảng, đồng thời góp phần phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Nhận thức rõ vai trò và nhiệm vụ của công tác xuất bản trong công tác tư tưởng-văn hóa của Đảng, Đại hội VI (1986) của Đảng chủ trương: “Nâng cao chất lượng công tác xuất bản cả ở Trung ương và địa phương, bảo đảm có nhiều sách bổ ích, kịp thời phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm nguyên tắc và thiếu trách nhiệm dẫn tới xuất bản và phát hành văn hóa phẩm độc hại. Cố gắng xuất bản một số sách chính trị, khoa học, kỹ thuật, văn học có chất lượng, với khối lượng tương đối lớn, đủ cung cấp cho mỗi cơ sở một tủ sách hay”2. Trong bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội thời kỳ mới có nhiều khó khăn, thách thức, Đại hội VI của Đảng chú trọng nhiệm vụ: “quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, công tác điện ảnh, và công tác phát hành sách, báo, phim ảnh. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng thông tin; đưa đến tận các đơn vị cơ sở những giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc và thế giới, những kiến thức phổ thông và hiện đại về khoa học, kỹ thuật”3; các lực lượng làm công tác tư tưởng phải tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch, khẳng định mạnh mẽ và truyền bá rộng rãi những giá trị đạo đức mới, thúc đẩy quá trình hình thành lối sống mới4.
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI có những chỉ đạo cụ thể đối với công tác xuất bản, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật xuất bản phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Ngày 25-7-1990, Chỉ thị số 63-CT/TW, của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản” được ban hành. Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đây là văn kiện quan trọng đầu tiên nêu rõ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí, xuất bản. Chỉ thị nêu 6 nội dung cơ bản: khẳng định sách báo là công cụ rất quan trọng trên mặt trận tư tưởng; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản; công tác quản lý của Nhà nước đối với báo chí, xuất bản; trách nhiệm của cơ quan chủ quản; tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của người phụ trách cơ quan báo chí, xuất bản; thành lập đảng đoàn ở các Ban Chấp hành Hội Nhà báo Trung ương và địa phương5.
Đối với nội dung lãnh đạo của Đảng trong công tác báo chí, xuất bản, Chỉ thị số 63-CT/TW nêu rõ 6 vấn đề lớn: (1) Lãnh đạo nâng cao chất lượng nội dung chính trị, tư tưởng của báo chí, xuất bản; (2) Định hướng việc quy hoạch mạng lưới báo chí, xuất bản, nhà in, phát hành,...; (3) Kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng trong các sách, báo, nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực và phẩm chất chính trị của cán bộ...; (4) Lãnh đạo cơ quan nhà nước xây dựng hệ thống luật pháp và các văn bản pháp quy về báo chí, xuất bản theo định hướng chính trị của Đảng...; (5) Ban Tư tưởng-Văn hóa ở Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy, đặc khu ủy là cơ quan giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác báo chí, xuất bản...; (6) Những việc thuộc trách nhiệm giải quyết của cơ quan nhà nước quản lý xuất bản thì các cơ quan đó phải xử lý...6. Như vậy, Chỉ thị số 63-CT/TW (25-7-1990) đã nêu rõ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với báo chí, xuất bản; đồng thời chỉ rõ vai trò quan trọng của quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, xuất bản.
Từ năm 1986 đến năm 1990, đất nước từng bước vượt qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, đời sống văn hóa, xã hội có sự phát triển rõ nét, trình độ dân trí được nâng cao. Trước những chuyển biến về nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, Đại hội VII (1991) của Đảng yêu cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng-văn hóa, trong đó đặt lên hàng đầu nâng cao chất lượng thông tin, báo chí xuất bản: “phát triển sự nghiệp thông tin, báo chí xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân”7.
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW, ngày 31-3-1992, “Về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản”. Chỉ thị định hướng cơ bản để ngành xuất bản thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; kịp thời điều chỉnh hướng phát triển của ngành xuất bản; khắc phục những lệch lạc, thiếu sót, đặc biệt nhấn mạnh vai trò, năng lực, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến các cấp đối với hoạt động xuất bản. Trong Chỉ thị này, Đảng chủ trương xây dựng Luật Xuất bản.
Tháng 1-1993, HNTƯ 4 khóa VII của Đảng đề ra nhiệm vụ triển khai xây dựng Luật Xuất bản nhằm “Thể chế hóa kịp thời những chủ trương, biện pháp nêu trong Nghị quyết Trung ương. Trước mắt, tập trung xây dựng một số luật cần thiết như Luật xuất bản, Luật bảo vệ di sản văn hóa dân tộc”8.
Ngày 18-2-1995, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”. Nghị quyết nhấn mạnh: nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí, nắm vững và chủ động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng; đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch...
Năm 1996, trên cơ sở những kết quả đạt được trong 10 năm đầu đổi mới, Đại hội VIII của Đảng xác định rõ phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm công tác tư tưởng-văn hóa của Đảng: “Phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ thuật khác”9. Giải pháp quan trọng để phát triển ngành xuất bản là hiện đại hóa ngành và tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. “Từng bước hiện đại hóa các ngành phát thanh, truyền hình, điện ảnh, in, xuất bản... Tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng của toàn xã hội, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, loại trừ các văn hóa phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội”10.
10 sau khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986-1996), hoạt động báo chí, xuất bản đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng cũng còn một số hạn chế. Bên cạnh những ấn phẩm tốt, đã xuất hiện một số cơ quan báo chí, nhà xuất bản chạy theo lợi nhuận đơn thuần, xa rời chức năng xã hội là giáo dục con người, nâng cao dân trí. Phương tiện in phát triển nhanh nhưng quản lý thiếu chặt chẽ. Công tác phát hành tuy có cố gắng nhưng chưa làm tròn nhiệm vụ đưa sách báo đến mọi nhà, mọi miền, nhất là vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản”. Chỉ thị nêu những quan điểm và định hướng lớn đối với hoạt động xuất bản, nhấn mạnh: “Báo chí-xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị, xã hội, là diễn đàn của nhân dân luôn luôn đi đầu trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước”11. Đối với nhiệm vụ quản lý báo chí, xuất bản, Chỉ thị nêu rõ: “dựa trên dự kiến quy hoạch tổng thể báo chí, xuất bản đến năm 2000 và những năm tiếp theo để kiểm tra, xem xét cụ thể và chấn chỉnh kịp thời theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân trong thời kỳ mới, không để xảy ra tình trạng tự phát”12. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác báo chí, xuất bản: “Khẩn trương quy hoạch và sắp xếp lại hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phóng viên, biên tập viên, chú trọng đội ngũ cốt cán, các tổng biên tập, phó tổng biên tập, phó giám đốc... Không mở các khoa, lớp báo chí, xuất bản ở các trường đại học dân lập, tư thục..., xây dựng bộ giáo trình chuẩn để đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản”13. Chỉ thị đã nêu phương châm cơ bản, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, nhấn mạnh phát triển phải đi đôi với quản lý tốt, đồng thời kiện toàn các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí-xuất bản của cấp ủy đảng và chính quyền...
Đến năm 2001, Đại hội IX của Đảng đề ra phương hướng, mục tiêu: “Hướng báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; Nâng cao tính chân thực, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin; khắc phục khuynh hướng “thương mại hóa” trong hoạt động báo chí, xuất bản”14.
Qua các văn kiện của Đảng từ năm 1986 đến năm 2001 cho thấy sự nhất quán và có bước phát triển trong chủ trương, quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo báo chí, xuất bản của Đảng. Trong đó, nhận thức của Đảng về những quy luật đặc thù của lĩnh vực xuất bản; sự cần thiết về nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo, quản lý công tác xuất bản ngày càng rõ ràng và có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức lãnh đạo.
2. Một số kết quả
Quán triệt và triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo công tác xuất bản, công tác xuất bản từng bước đổi mới cả về cơ chế, chính sách, nội dung và hình thức, hướng vào tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần giáo dục ý thức cảnh giác, đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai trái, luận điệu chống phá chế độ XHCN.
Cơ quan lãnh đạo, quản lý xuất bản các cấp được củng cố, tăng cường.
Ở cấp Trung ương, xây dựng, kiện toàn cơ quan trực tiếp tham mưu giúp việc chỉ đạo, quản lý xuất bản: Vụ Báo chí xuất bản-đơn vị trực thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương (1966-1989), Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (1989-2007); Cục Xuất bản-đơn vị trực thuộc Bộ Văn hóa (1981-1989), Bộ Văn hóa-Thông tin-Thể thao và Du lịch (1990); các Sở Văn hóa và Thông tin,... Nhờ đó, công tác chỉ đạo, quản lý xuất bản đã có nhiều cố gắng và tiến bộ hơn trước. Việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách trong lĩnh vực xuất bản có hiệu quả. Công tác chỉ đạo và quản lý nhà nước về xuất bản đã góp phần quyết định, đảm bảo định hướng chính trị và nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất bản, kịp thời điều chỉnh, uốn nắn những lệch lạc, sai phạm.
Hằng năm, Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương hướng dẫn các nhà xuất bản (NXB) xây dựng phương hướng, nhiệm vụ công tác, tập trung vào những nhiệm vụ chính trị của Đảng để xây dựng kế hoạch xuất bản. Căn cứ vào định hướng tuyên truyền trong năm và chức năng, nhiệm vụ của NXB, Bộ Văn hóa-Thông tin xem xét và cấp giấy chấp nhận đăng ký kế hoạch hàng năm và kế hoạch bổ sung. Qua quá trình đó, Ban Tư tưởng-Văn hóa và Bộ Văn hóa-Thông tin đánh giá kết quả, tiến độ thực hiện, để có biện pháp điều chỉnh, bổ sung, bảo đảm hoàn thành kế hoạch của toàn ngành.
Các quan điểm, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành hệ thống chính sách, pháp luật về xuất bản khá đồng bộ.
Dự án Luật Xuất bản được xây dựng từ sau Đại hội VII (1991) đã được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 7-7-1993, chính thức công bố ngày 19-7-1993. Điều 1 của Luật Xuất bản khẳng định rõ: “Hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người, không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. Hoạt động xuất bản nhằm mục đích: 1-Phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật; giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới; nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2-Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam”15. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm cho sự phát triển của hoạt động xuất bản trong thời kỳ đổi mới.
Ngành xuất bản đã tiến hành sắp xếp lại hệ thống NXB trên toàn quốc, theo hướng chất lượng, hiệu quả.
Thực hiện chủ trương của Đảng theo Chỉ thị số 08-CT/TW, ngày 31-3-1992, của Ban Bí thư, năm 1991, cả nước có 52 NXB, trong đó có 29 NXB ở Trung ương và 23 NXB ở địa phương16. Đến năm 1994, cả nước còn 36 NXB; năm 1995 tăng lên 54 NXB; năm 2001 có 44 NXB, trong đó có 33 NXB ở Trung ương và 11 NXB ở địa phương; có 400 cơ sở in công nghiệp, trong đó doanh nghiệp: 250, sự nghiệp: 150; có 124 cơ sở làm nhiệm vụ phát hành xuất bản phẩm17. Sau khi sắp xếp lại, các NXB đã tập trung đổi mới các mặt hoạt động, nhiều NXB có hướng hoạt động chuyên nghiệp, tạo được uy tín, thế mạnh riêng. Các NXB lớn được tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cao năng lực, quy mô, như: NXB Chính trị quốc gia, NXB Giáo dục, NXB Kim Đồng, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ,... Nhiều NXB trang bị thiết bị in hiện đại như NXB Bản đồ, NXB Giáo dục...
Hoạt động xuất bản đã phát triển mạnh cả về tốc độ, quy mô, số lượng và chất lượng, góp phần tích cực vào công tác tư tưởng-văn hóa. Nhiều ấn phẩm, sách báo đã trực tiếp tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trở thành vũ khí quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, tệ nạn xã hội. Nhiều bộ sách có giá trị cao thuộc nhiều lĩnh vực như sách nghiên cứu về chính trị, sách văn hóa xã hội, sách khoa học công nghệ, sách kinh tế và quản lý kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế được xuất bản; cơ cấu đề tài phân bố hợp lý, bám sát và phục vụ có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước. Trung bình từ năm 1986 đến năm 1991, xuất bản được từ 2.000 đến 3.000 đầu sách và trên dưới 60 triệu bản18. Năm 1991, số lượng sách xuất bản đạt 3.122 đầu sách với 62,943 triệu bản. Năm 2001, xuất bản được 14.390 đầu sách, 190.940 bản sách. So với năm 1991, tăng 4,6 lần về đầu sách, tăng hơn 3 lần về số bản sách. Năm 2001, số lượng trang in gấp 4,5 lần so với năm 199119.
Bám sát các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước; các xuất bản phẩm đa dạng, phong phú, cung cấp tri thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Doanh thu phát hành sách và xuất bản phẩm tăng đều hằng năm. Năm 2001, 100% đơn vị hoạt động kinh doanh sách và xuất bản phẩm có lãi. Công ty Phát hành sách Thành phố Hồ Chí Minh đạt 225 tỷ doanh thu năm 2001. Công ty Phát hành sách Phú Thọ năm 2001 doanh thu đạt 54,5 tỷ20. Chính sách trợ giá, đặt hàng được Nhà nước quan tâm, đặc biệt đối với sách dành cho học sinh, dành cho đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Công tác quy hoạch cán bộ, phát triển nguồn nhân lực xuất bản đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, công nhân viên chức trong ngành xuất bản không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Trong những năm 1998-2001, công tác đào tạo nguồn nhân lực lao động ngành xuất bản trên cả nước có 9 đơn vị tham gia thực hiện, đó là: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Kỹ thuật in, Cao đẳng Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Dạy nghề Công ty in Trần Phú, Trung tâm Dạy nghề của Nhà máy In Tiến bộ21.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (trước đó có nhiều tên gọi khác như Đại học Tuyên huấn, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền...) là cơ sở duy nhất cả nước đào tạo chuyên ngành biên tập-xuất bản. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh là những cơ sở có chức năng đào tạo chuyên ngành phát hành xuất bản phẩm, cung cấp lực lượng cán bộ phát hành chuyên nghiệp có trình độ đại học và trên đại học cho các công ty phát hành sách và kinh doanh xuất bản phẩm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trên cả nước. Bên cạnh đó, trong hệ thống đào tạo lao động phát hành còn có trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, tham gia liên kết đào tạo cán bộ phát hành trình độ đại học và dưới đại học. Đào tạo kỹ sư ngành in do Đại học Bách khoa Hà Nội (Khoa Công nghệ hóa học-Bộ môn Công nghệ vô cơ và Công nghệ in); Khoa Kỹ thuật in-Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Cao đẳng Kỹ thuật in (Bộ Văn hóa-Thông tin), cùng một số công ty ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,.. tham gia đào tạo công nhân kỹ thuật ngành in...
Các đơn vị đào tạo được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, gắn đào tạo với thực tiễn và yêu cầu mới của xuất bản hiện đại; chú trọng nghiên cứu, xác định các phương thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp và thực tiễn; đổi mới và hiện đại hóa chương trình, nội dung đào tạo, bảo đảm cân bằng giữa lý thuyết và thực hành, gắn đào tạo với thực tiễn.
Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản được chú trọng.
Thực hiện Luật Xuất bản (năm 1993) và các văn bản dưới luật, hoạt động xuất bản đã được củng cố tích cực, khắc phục dần những yếu kém khi mới chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế để đứng vững trong cơ chế thị trường. Các NXB, đơn vị in, phát hành đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, dần đi vào ổn định để phát triển.
Tuy nhiên, thị trường sách còn tồn tại nhiều bất cập. Các cơ quản quản lý đã rà roát, chấn chỉnh lại toàn bộ hoạt động xuất bản, trên các mặt: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện tôn chỉ mục đích của các NXB theo quy định của giấp phép hoạt động; Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các thủ tục, thể lệ, chế độ chính sách trong hoạt động xuất bản; Kiểm tra việc thực hiện quy trình hoạt động xuất bản; Kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của các NXB và các Sở Thông tin và Truyền thông. Bên cạnh đó, Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa-Thông tin đã chỉ đạo tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch hằng năm và kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về lĩnh vực xuất bản. Đối với những nhà xuất bản sai lầm, Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa-Thông tin kiên quyết xử lý kỷ luật...22
Bên cạnh những bước tiến và thành tựu đạt được, công tác xuất bản trong thời kỳ này cũng có một số hạn chế như: Xu hướng “thương mại hóa” ở không ít cơ quan báo chí và xuất bản; việc chấp hành kỷ luật thông tin của Đảng, pháp luật của Nhà nước về báo chí, xuất bản chưa nghiêm; quy hoạch báo chí, NXB thiếu cụ thể; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo chủ chốt thiếu quy hoạch, chất lượng đào tạo chưa cao, quản lý chương trình, giáo trình lỏng lẻo, thiếu hệ thống;...
Từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác xuất bản trong giai đoạn 1986-2001, có thể đúc rút một số kinh nghiệm sau: Một là, luôn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác xuất bản. Hai là, chỉ đạo sát sao việc xây dựng, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất bản và một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động xuất bản. Ba là, lãnh đạo xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xuất bản. Bốn là, lãnh đạo công tác kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động xuất bản. Năm là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận, phẩm chất, đạo đức để đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản góp phần trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN.
Trong 15 năm đổi mới (1986-2001), công tác xuất bản đã góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cổ vũ, tạo sự đồng thuận xã hội; nâng cao kiến thức của nhân dân về chính trị, lý luận, pháp luật, văn hóa-xã hội, khoa học công nghệ, phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều xuất bản phẩm còn là công cụ sắc bén đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động, thù địch; cung cấp những thông tin đúng đắn về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; xây dựng và quảng bá hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 4/2020
1, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 50, tr. 170-171, 170-174, 170-174
2, 3, 4. Sđd, T. 47, tr. 464, 426, 461
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H, 1991, tr. 84
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 14-1-1993, “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”
9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, T. 55, tr. 392, 470
11, 12, 13. Sđd, T. 56, tr. 470, 472, 472-473
14. Sđd, T. 60, tr. 144
15. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Luật Xuất bản, số 22-L/CTN, ngày 7-7-1993
16. Xem: Xuất bản Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 61
17. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương-Bộ Văn hóa Thông tin-Hội Nhà báo Việt Nam: Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác Báo chí xuất bản, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 68
18. Xem Các nhà xuất bản Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, H, 2006, tr. 115
19. Xem: Bộ Thông tin và Truyền thông: 60 năm ngành xuất bản, in, phát hành sách Việt Nam (1952-2012), Nxb Từ điển Bách khoa, H, 2012, tr. 21
20, 21, 22. Xem Báo cáo ngày 10-1-2004 của Ban Tư tưởng-Văn hóa (Dự thảo lần 3), “Báo cáo tình hình công tác xuất bản 5 năm (1982-2002) và phương hướng phát triển, nhiệm vụ chủ yếu của xuất bản thời kỳ mới (2004-2010)”, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phân phông Ban Chấp hành Trung ương, Phông số 11, Mục lục số 6, Đ.V.B.Q số: 1889, tr. 9, 47, 2.