Tóm tắt: Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng, họp từ ngày 27 ngày đến 31-3-1935, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến lớn. Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam. Đại hội đã thống nhất được ý chí, tư tưởng và chủ trương hành động, khôi phục tổ chức, tập hợp lực lượng, lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh phù hợp với tình hình mới. Đại hội để lại nhiều bài học có giá trị, trong đó có bài học về nhận thức đúng tình hình và xác định những nhiệm vụ chính trị.

Từ khóa: Đại hội I của Đảng; bài học; tình hình; nhiệm vụ chính trị

1. Đại hội đánh giá toàn diện bối cảnh thế giới, trong nước và tình hình của Đảng; đề ra nhiệm vụ chính trị

Đại hội I của Đảng đánh giá khái quát tình hình của hệ thống XHCN, hệ thống TBCN thế giới và phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới chống CNĐQ. Nhận định về những thành tựu của Liên Xô trong công cuộc xây dựng CNXH, Đại hội khẳng định: Những thắng lợi đó đã làm cho thanh thế Xô viết Liên bang trên trường quốc tế ngày càng thêm mạnh, đảm bảo cho nền tảng cách mạng thế giới được củng cố, có ảnh hưởng rất lớn tới quần chúng lao động và dân chúng bị áp bức trong các xứ. XHCN đã thành một sự tất nhiên, mở rộng đường giải phóng cho lao động của các dân tộc bị áp bức toàn thế giới. Đại hội chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu đó là do Đảng Cộng sản Liên Xô đã kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin: “Được những điều thắng lợi vĩ đại kia là nhờ có tranh đấu chống các xu hướng đầu cơ, bọn tờrốtkít phản cách mạng, chống tả phái, hữu phái, nhờ có đường chính trị đúng Mác-Lênin chủ nghĩa của Đảng Bônsơvích”1.

Về hệ thống TBCN, Đại hội phân tích những nguyên nhân dẫn tới sự suy yếu của CNTB sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và chỉ rõ những mâu thuẫn sâu sắc trong lòng các nước TBCN, giữa các đế quốc với đế quốc trong hệ thống TBCN thế giới ngày càng tăng thêm. Từ đó, phân tích nguyên nhân xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh từ các nước đế quốc.

Về tình hình Đông Dương, Đại hội phân tích toàn diện tình hình kinh tế - xã hội dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp của nền thống trị của thực dân Pháp. Đồng thời, chỉ rõ âm mưu của thực dân Pháp vừa tăng cường khủng bố, vừa thực hiện những thủ đoạn mị dân hòng làm dịu mâu thuẫn xã hội, chia rẽ 3 nước Đông Dương.

Về phong trào cách mạng ở Đông Dương, Đại hội I của Đảng đã đánh giá, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố song phong trào cách mạng đã được phục hồi: “Một điều đặc sắc là đa số trong các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng chỉ huy trong khoảng hai năm này đều được thắng lợi hoặc hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho công nông thêm hăng hái tranh đấu”2, “Đảng Cộng sản ta tuy trong thời gian cải tạo nhiều nơi đứt dây liên lạc với quần chúng, nhưng trong khoảng hai năm nay, Đảng ta lại chiếm địa vị ưu thế trong các cuộc tranh đấu có tính chất tổ chức của quần chúng”3.

Đánh giá tình hình Đảng, Đại hội nhận định thắng lợi lớn trong giai đoạn đầy khó khăn này là: “đã khôi phục được hệ thống của Đảng khắp toàn Đông Dương, đã khôi phục được các tổ chức của cơ quan chỉ đạo bị đế quốc phá tan hồi năm 1931. Đảng đã đào tạo được cán bộ mới để thế cho chiến sĩ bị chém giết, tù đày”4. Đại hội cho rằng, tổ chức Đảng đã lan tới các vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, ở các vùng kĩ nghệ, nhà máy, mỏ, đồn điền thì tổ chức Đảng còn yếu. Trong Đảng, ngay ở cơ quan chỉ đạo của Đảng, công nhân rất ít. Sự liên lạc giữa các cấp chưa chặt chẽ.

Từ nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục, các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo có bước phục hồi, thúc đẩy tinh thần đấu tranh của quần chúng công nông, kiểm điểm hạn chế trong hệ thống tổ chức của Đảng, Đại hội I của Đảng xác định toàn Đảng phải tập trung thực hiện 3 ba nhiệm vụ chính:

Một là, củng cố và phát triển Đảng. Đại hội đề ra nhiệm vụ tăng cường phát triển lực lượng Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng; kết nạp thêm nông dân và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng; đưa thêm nhiều đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng: “Cần kế tiếp tổ chức những phần tử nông dân và trí thức chân thật cách mạng vào Đảng, nhưng cần phải thiết pháp đem thợ vào Đảng cho đông, nhưng đừng lấy cớ mở rộng cửa Đảng cho vô sản mà đem vào Đảng những phần tử lạc hậu, sụt sè, lười biếng, tổ chức phức tạp, nguy hiểm cho đường chính trị, cho công tác đảng, phải tuyển lựa đồng chí làm cho Đảng vừa có tính chất quần chúng, vừa gồm những phần tử tranh đấu, hoạt động cương quyết, trung thành với cộng sản chủ nghĩa. Trong các cơ quan chỉ đạo của Đảng bắt buộc phải để cho các phần tử vô sản choán đa số để bảo đảm cho Đảng đi đúng đường chính trị vô sản”5.

Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng. “Đại hội ủy quyền cho Ban Trung ương định kế hoạch đào tạo ra cán bộ mới cho đông để dự bị thế cho cán bộ cũ khi bị bắt. Trung ương và các đảng bộ phải tìm đủ phương pháp để mở rộng cuộc tuyên truyền sách lược của Đảng trong quần chúng lao động. Nhiệm vụ mở rộng cuộc tuyên truyền, mở rộng sách báo trong các cấp đảng bộ phải thi hành đồng thời với nhiệm vụ kiểm tra sách báo rất nghiêm ngặt, làm cho nền tư tưởng và hành động được thống nhất, diệt ngay những lỗi lầm và xu hướng hoạt đầu từ lúc mới nảy nở (sách báo, v.v.)”6. Đại hội nhấn mạnh: “Đảng phải bảo đảm cho chủ nghĩa Mác - Lênin được trong sạch, cho hàng ngũ Đảng được thống nhất về lý thuyết và thực hành”7. Đại hội yêu cầu: “Cần giữ kỷ luật sắt cho Đảng, những phần tử đi trái đường chính trị chung của Đảng, của Quốc tế Cộng sản mà không chịu sửa lỗi, những kẻ không phục tùng nghị quyết, điều lệ, phá hoại kỷ luật của Đảng thì nhất thiết phải khai trừ”8.

Hai là, thu phục quảng đại quần chúng lao động. Đại hội coi thu phục rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ trung tâm, cơ bản, trước mắt của Đảng. Phải củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Bênh vực quyền lợi của quần chúng; củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, như: công hội, đoàn thanh niên, phụ nữ, nông dân, xây dựng mặt trận thống nhất tranh đấu9.

Ba là, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc là nhiệm vụ toàn Đảng và các đoàn thể cách mạng. Đại hội quyết định lập các ban ủy viên chống đế quốc chiến tranh (dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương) gồm những đại biểu đảng phái, đoàn thể và phần tử cá nhân “có tánh chất chống đế quốc chiến tranh”10.

Nghị quyết chính trị của Đại hội I của Đảng đã chỉ rõ sự cần kíp của việc tìm ra các phương pháp đấu tranh cách mạng phù hợp tình hình thế giới và trong nước: “Những cuộc đấu tranh bấy lâu nay ở Đông Dương đã biểu hiện rõ ràng tiền đề cách mạng khủng hoảng đương phát triển và thành thục. Điều kiện khách quan rất thuận tiện cho quá trình phát triển và thành thục của tiền đề cách mạng khủng hoảng, song điều kiện chủ quan còn yếu, nên hiện thời cần phải tìm đủ phương pháp làm cho điều kiện chủ quan theo kịp điều kiện khách quan”11. Có thể thấy việc Đảng xác định cần phải tìm ra các phương pháp mới là hướng đến thúc đẩy sự phát triển của lực lượng cách mạng, nâng cao ý thức giác ngộ và tinh thần tham gia sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân nhằm bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng và khó lường của tình hình thế giới.

Với việc thông qua Nghị quyết chính trị và các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính,… Đại hội đã quy tụ được các phong trào, các tổ chức hoạt động phân tán trong toàn quốc vào một mối duy nhất, thống nhất được phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, đem lại cho toàn thể đảng viên và quần chúng niềm tin vào thắng lợi của cách mạng trong tương lai, chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn tiếp theo.

Tuy vậy, Đại hội I của Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định. Khi tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi, đòi hỏi Đảng phải nhạy bén kịp thời đề ra phương hướng hoạt động thích hợp, Đại hội chưa thấy rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và những khả năng mới của phong trào cách mạng để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Như Mặt trận thống nhất là vấn đề cấp thiết đặc biệt trong thời điểm nguy cơ xuất hiện phát xít và nguy cơ chiến tranh. Chỉ một thời gian ngắn sau Đại hội I của Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong đã báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản nêu rõ: “Đại hội Đảng chúng tôi coi vấn đề đó là vấn đề bổ trợ và không đặt ra trong chương trình nghị sự”12. Về vấn đề tranh thủ quần chúng, mặc dù Đại hội đã có chủ trương đúng, đó là: “hướng về xí nghiệp”, “tập trung sức chủ yếu vào các trung tâm công nghiệp”, nhưng trên thực tế “Đại hội chỉ dừng lại ở quan điểm tổ chức các công hội đỏ, điều đó không tạo khả năng tổ chức các công hội có tính chất quần chúng bất cứ tên gọi nào, dưới bất cứ hình thức nào mà chung quanh đó chúng tôi có thể tập hợp quần chúng đông đảo nhằm chống lại sự tấn công của tư bản”13.

2. Bài học về nhận thức tình hình và xác định những nhiệm vụ chính trị

Vấn đề nhận thức tình hình một cách chủ động, nhạy bén đề ra đường lối chính trị kịp thời, phù hợp là yêu cầu hàng đầu đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Khắc phục những hạn chế trong nhận định, đánh giá tình hình, trong giai đoạn cách mạng tiếp theo, Đảng đã bám sát tình hình thực tiễn, điều chỉnh nhiệm vụ cách mạng cho phù hợp, tận dụng những thuận lợi mới.

Giai đoạn 1936-1939, Đảng đã kịp thời nắm bắt chuyển biến của tình hình thế giới, đề ra nhiệm vụ chính trị, phương pháp đấu tranh phù hợp. Từ đầu năm 1936, tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, nhanh chóng. Nền dân chủ tư sản chuyển sang nền chuyên chính phát xít và hình thành một liên minh vào năm 1936. Trước nguy cơ phát xít, phong trào đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới dâng cao. Tháng 5-1935, Mặt trận nhân dân Pháp giành được thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội, dẫn đến sự ra đời của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp, tháng 6-1936. Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp đã ban hành một số chính sách tiến bộ đối với các thuộc địa, như: ân xá tù chính trị, lập Ủy ban điều tra tình hình ở các thuộc địa, thi hành một số cải cách xã hội. Trước những chuyển biến của tình hình, căn cứ vào chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản, Đảng tiến hành chuyển hướng chỉ đạo phong trào cách mạng. Từ năm 1936 đến năm 1938, cơ quan Trung ương của Đảng đã tiến hành nhiều cuộc hội nghị để bàn các chủ trương lãnh đạo phong trào. Đảng xác định những mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu đấu tranh trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh đế quốc, đòi dân sinh, dân chủ và bảo vệ hòa bình. Đảng xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn phản động thuộc địa Pháp, tay sai của bọn phản động ở “chính quốc”; một bộ phận tư sản mại bản, đại địa chủ - tay sai đắc lực của bọn phản động thuộc địa. Đảng nêu rõ hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp với quần chúng là kết hợp hình thức tổ chức bí mật với tổ chức công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp, tập hợp và hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, thông qua đó giáo dục và phát triển đội ngũ cách mạng. Về mặt trận, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (sau đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) bao gồm các lực lượng cách mạng, các đảng phái…, thống nhất đấu tranh chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi những quyền lợi dân chủ. Thành lập Mặt trận được coi là nhiêm vụ trọng tâm của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, Đảng đã kịp thời và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái với đường lối, chủ trương của Đảng; uốn nắn một số vấn đề về nhận thức, tư tưởng trong nội bộ Đảng để thống nhất quan điểm đánh giá đối với những vấn đề chiến lược, sách lược của Mặt trận dân chủ, trên cơ sở đó tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Giai đoạn 1939-1945 thể hiện rõ năng lực, sự nhạy bén chính trị của Đảng trong đánh giá tình hình thế giới, những chuyển biến từ cuộc chiến tranh thế giới thứ II tác động đến các thuộc địa, đến Đông Dương, từ đó thống nhất tư tưởng, đường lối và chỉ đạo phong trào cách mạng, chớp thời cơ giành chính quyền.

Khi chiến tranh thế giới II bùng nổ (9-1939), Chính phủ Pháp thi hành chính sách phản động ở trong nước và ở các thuộc địa. Chính quyền thuộc địa thực hiện chính sách kinh tế thời chiến để phục vụ cho chiến tranh. Tháng 9-1940, quân đội phát xít Nhật Bản tiến vào Đông Dương, thực dân Pháp và phát xít Nhật cấu kết với nhau áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương.

Trước tình hình thế giới có những thay đổi lớn, Hội nghị Trung ương Ðảng tháng 11-1939 và HNTƯ 8, tháng 5-1941 đã quyết định đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. HNTƯ 8 nhấn mạnh: Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc. Đảng chủ trương động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong  Mặt trận Việt Minh, với những chính sách hiệu triệu, giải quyết hài hòa lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi thiết thực của các tầng lớp xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc. Mặt trận Việt Minh tuyên truyền, cổ động mở rộng các Hội Cứu quốc trong các giai cấp, tầng lớp nhân dân, thu hẹp lực lượng chống đối và lừng chừng, tạo nên một lực lượng chính trị hùng mạnh. Ðảng chỉ đạo phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân tích cực chuẩn bị mọi điều kiện để khi có thời cơ, tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng thể hiện rõ nét ở thời điểm quyết định thay đổi vận mệnh dân tộc từ nô lệ tiến tới độc lập, tự do. Cuối năm 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt... Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!14. Hồ Chí Minh chỉ thị cho các cấp bộ đảng và nhân dân vận dụng các hình thức đấu tranh thích hợp. Đảng xác định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của mặt trận dân chủ chống phát xít, có quan hệ mật thiết với cuộc đấu tranh chống phát xít của Liên Xô và cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc. Ngay đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương họp Hội nghị mở rộng, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, trước mắt của nhân dân Đông Dương. Bản Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhận định chuẩn xác tình hình; chỉ ra những cơ hội tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chóng chín muồi. Tư tưởng chỉ đạo là: “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”15. Căn cứ vào nội dung bản Chỉ thị, các tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động cao trào kháng Nhật mạnh mẽ, tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”16, chỉ trong vòng 2 tuần cuối tháng 8-1945, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và Tổng bộ Việt Minh giành thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là mốc son chói lọi, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.

Bài học về nhận thức tình hình để xác định đường lối cách mạng, bám sát thực tiễn để lãnh đạo thực hiện đường lối được Đảng vận dụng, phát huy trong quá trình tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Bài học đó tiếp tục được vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.

 

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1999, T. 5, tr. 2, 17, 16, 18, 23 - 24, 24, 25, 25, 30, 18, 303, 303

9. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1999, T. 5, tr. 26, 27, 29

14, 16. Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 3, tr. 538, 596

15. Trường Chinh: “Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-1992