Tóm tắt: Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, Đảng luôn nhận thức rõ vai trò của điện lực đối với sản xuất và đời sống, đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Bài viết làm rõ những chủ trương của Đảng nhằm khôi phục, xây dựng và bảo vệ hệ thống điện lực miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Từ đó khẳng định vai trò của điện lực đối với công cuộc xây dựng hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Từ khóa: Chủ trương của Đảng, điện lực, miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ, 1954-1975

1. Chủ trương của Đảng về phát triển điện lực

Sau Hiệp định Genève (năm 1954), thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Nam, đất nước tạm thời bị phân chia thành hai miền. Miền Bắc được giải phóng đi lên xây dựng CHXH, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống đế quốc Mỹ và tay sai. Trước bối cảnh mới của đất nước, Đảng xác định nhiệm vụ cụ thể đặt ra lúc này đối với miền Bắc là: "hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục lại nền kinh tế quốc dân, làm giảm bớt những khó khăn trong đời sống nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các tầng lớp nhân dân"1. Tập trung khôi phục và phát triển điện năng để phát triển kinh tế, xã hội luôn là một trong những ưu tiên được Đảng đặt ra. Công tác trọng tâm để thực hiện nhiệm vụ này là tập trung sửa chữa phục hồi thiết bị ở các nhà máy điện hiện có, đồng thời xây dựng nhanh chóng một số nhà máy điện mới, khôi phục và cải tạo một số đường dây tải điện, phát triển thêm các đường dây mới. Trong Báo cáo tại HNTƯ 14 khoá II về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân, Đảng đã xác định: "việc xây dựng và phát triển công nghiệp, ngành điện lực phải đi trước. Phải củng cố và tăng cường lưới điện lực đảm bảo cho nhu cầu phát triển sản xuất và phải nghiên cứu việc phát triển ngành điện lực để phục vụ cho kế hoạch sau"2.

Đến năm 1960, Nghị quyết Đại hội III (1960) của Đảng nêu rõ, trong thời gian kế hoạch 5 năm (1961-1965) phải "thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc"3. Để thực hiện được điều đó, Đại hội xác định: "điện lực và nhiên liệu là cơ sở động lực của nền đại công nghiệp cơ khí và các ngành kinh tế quốc dân"4. Muốn phát triển các ngành kinh tế, trước hết phải phát triển công nghiệp điện lực và nhiên liệu. Điện lực và nhiên liệu còn rất cần thiết cho việc phục vụ đời sống nhân dân. Cuộc cách mạng về kỹ thuật càng phát triển thì nhu cầu điện lực và nhiên liệu càng tăng lên rất nhiều. Vì vậy "phải đưa điện lực đi trước một bước"5 trong quá trình công nghiệp hóa XHCN. Phương hướng phát triển ngành điện lực được đề ra là: “Kết hợp phát triển nhiệt điện với phát triển thuỷ điện,...Đi đôi với xây dựng các xí nghiệp phát điện lớn, cần chú ý xây dựng các trạm phát điện nhỏ ở các địa phương,... Xây dựng xí nghiệp phát điện cần đi đôi với phát triển các đường dây tải điện, tiến lên thống nhất mạng lưới điện trong toàn miền Bắc"6.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là một bước quan trọng mở đầu thời kỳ công nghiệp hóa XHCN. Tuy nhiên, khi miền Bắc chưa kịp kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tháng 8-1964 đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ, cho máy bay đánh phá nhiều nơi của miền Bắc. Sau đó, trong những năm 1965 - 1968, đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, dùng không quân ném bom bắn phá ác liệt toàn bộ miền Bắc, nhằm ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong chiến tranh phá hoại, các công trình điện lực là một trong những đối tượng đánh phá đầu tiên và ác liệt nhất của máy bay Mỹ. Các nhà máy vừa được khôi phục và xây dựng, có nhà máy chưa kịp đi vào sản xuất đã bị phá hoại, hư hỏng nặng trong các đợt ném bom bắn phá của máy bay Mỹ.

Trong hoàn cảnh có chiến tranh, việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống điện lực gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có chủ trương chuyển hướng kịp thời. Để đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đảng và Nhà nước thực hiện chủ trương sơ tán các nhà máy, kho tàng, xí nghiệp, đồng thời tiếp tục duy trì sản xuất7. "Vấn đề chính đối với ngành điện là xây dựng các đường dây trạm biến thế, các trạm phát điện dự phòng và chuẩn bị thiết bị và vật tư dự trữ và lực lượng sửa chữa để kịp thời phục hồi sản xuất khi địch bắn phá các nhà máy điện lớn. Đồng thời vẫn xây dựng một số công trình điện lực lớn: tiếp tục xây dựng Nhà máy điện Uông Bí đợt III và Nhà máy thủy điện Thác Bà"8. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, Đảng chủ trương ngành điện vẫn "phải hết sức duy trì hoạt động của các nhà máy nhiệt điện với mức sử dụng công suất cao nhất, lấy đó làm nguồn chủ yếu về cung cấp năng lượng"9.

Chính những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng đối với ngành điện trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể đã góp phần làm cho hệ thống điện ngày càng được mở rộng trong giai đoạn hòa bình và đứng vững trước những đợt ném bom đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ.

2. Một số kết quả

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngành điện đã có những bước phát triển tương đối mạnh mẽ. Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, toàn miền chỉ có 5 nhà máy điện công suất nhỏ, công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ. Điện chỉ phục vụ cho vài xí nghiệp nhỏ, hầu như không phục vụ cho nông nghiệp. Tuy nhiên, chỉ đến hết năm 1955 đã phục hồi sửa chữa và làm mới được 22 nhà máy điện. Trong năm 1956, có ba nhà máy điện mới được khởi công xây dựng (Nhà máy Điện Lào Cai: 8 MW, Nhà máy Điện Hàm Rồng ở Thanh Hóa: 6 MW, Nhà máy Điện Vinh ở Nghệ An: 8 MW). Tiếp theo, năm 1958 khởi công xây dựng Nhà máy Điện Việt Trì (16 MW). Đến năm 1959 đã có 12 nhà máy nhiệt điện công suất 95,5 nghìn KW, 12 nhà máy diesel công suất 4,4 nghìn KW và 2 nhà máy thủy điện công suất 2,1 nghìn KW. Như vậy tính đến năm 1959, ở miền Bắc có tất cả là 26 nhà máy điện có tổng công suất chung 102 nghìn KW, tức là bằng 195% so với tất cả các nhà máy điện ở Việt Nam năm 193910. Tổng công suất các nhà máy điện tăng từ 31,5 MW năm 1955 đến năm 1965 đã tăng lên 176 MW11.

Từ năm 1958 đến năm 1962 nhà nước đã đầu tư vào ngành điện 222 triệu đồng, chiếm 18,4% tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp12. Tổng mức đầu tư vào ngành điện trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là 482,2 triệu đồng13. Đó là mức đầu tư cao nhất trong các ngành công nghiệp nặng.

Song song với nguồn điện mới được đưa vào vận hành, lưới điện truyền tải và phân phối cũng được xây dựng. Năm 1955, khi ngành điện tiếp quản hệ thống điện ở miền Bắc, mạng lưới tải điện chỉ có điện áp 30,5 KV và 6 KV. Đến năm 1958, tuyến đường dây Hà Nội - Phố Nối được hoàn thành và đưa vào vận hành, là tuyến đường dây 35 KV đầu tiên ở miền Bắc. Năm 1962, những tuyến đường dây 110 KV đầu tiên của hệ thống điện (Đông Anh - Việt trì, Uông Bí - Hải Phòng) được khởi công xây dựng và hoàn thành đóng điện vào năm 1963. Thời điểm này, chỉ ở miền Bắc mới có hệ thống điện lưới 110 KV. Trước khi kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, toàn miền Bắc có tổng cộng 260 km đường dây 110 KV nối liền các nhà máy điện14.

Một mạng lưới truyền tải mới được xây dựng với hàng trăm kilomet đường dây điện truyền tải cấp điện áp 35 KV và 110 KV được hoàn thành xây dựng, kết nối các nhà máy điện và lưới điện các tỉnh với nhau (đường dây 110 KV Việt Trì - Đông Anh năm 1961, đường dây 110 KV Đông Anh - Thái Nguyên năm 1962, đường dây 110 KV Uông Bí - Hải Phòng năm 1964, các tuyến đường dây 110 KV Uông Bí - Đông Anh năm 1964, đường dây 110 KV Việt Trì - Thác Bà năm 1964). Các đường dây 30,5 KV cũ được cải tạo thành cấp điện áp 35 KV, nhiều đường dây 35 KV có tính chất truyền tải được đưa vào vận hành15.

Trong giai đoạn 1961-1965, điện lực đạt tốc độ phát triển lên tới 248% (trong khi tốc độ chung của ngành công nghiệp đạt 189%). Trong giai đoạn này, nhiều công trình điện mới, nhiều đường dây và trạm điện lần lượt ra đời và hoạt động hiệu quả16. Các khu công nghiệp, các vùng nông nghiệp trọng yếu, các nông trường, các tỉnh đồng bằng, trung du, ven biển, vùng than... đều đã nhận được điện để phát triển sản xuất. Lưới điện phân phối được đầu tư về nông thôn tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ để cấp điện cho trạm bơm tưới tiêu phục vụ nông nghiệp. Tỷ trọng điện sử dụng cho các lĩnh vực cũng có những thay đổi quan trọng: năm 1960 điện dành cho công nghiệp là 62,1% thì năm 1965 là 73%, cho nông nghiệp (2,6% và 7,1%), cho thắp sáng (29% và 16,2%). Số điện phục vụ công nghiệp tăng 4,3 lần, cho nông nghiệp tăng 8,7 lần17. Cuối năm 1965, tổng công suất các nguồn điện đạt 176 MW, gấp 2,68 lần so với năm 1960, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 21,8%, sản lượng điện đạt 659,5 triệu KWh, gấp 2,5 lần so với năm 1960, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 21,26%18. Cuối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), sản lượng điện năm 1965 đã đạt 659,5 triệu KWh, tăng gần 5 lần so với năm 1960. Điện phục vụ công nghiệp tăng 4,3 lần, nông nghiệp tăng 8,7 lần, sinh hoạt xã hội tăng 1,6 lần, số cơ sở sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp dùng điện tăng 2 lần, số trạm bơm nông nghiệp dùng điện tăng 21,3 lần19. Chỉ tiêu điện năng cho một người dân đến năm 1965 đạt mức 33 KW/người20.    

Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc, các nhà máy và xí nghiệp đã được tháo dỡ, di chuyển, phân tán, lắp ráp lại ở những nơi an toàn để sau đó tiến hành sản xuất. Hàng nghìn công nhân, kỹ sư, cán bộ ở các nhà máy điện đã đi sơ tán ra các vùng nông thôn theo nhà máy, xí nghiệp để tiếp tục lao động, sản xuất. Những nhà máy, xí nghiệp không thể sơ tán đã được tổ chức che chắn, bảo vệ. Các nhà máy đều tổ chức những đơn vị công nhân vũ trang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ xí nghiệp. Những lời hiệu triệu, kêu gọi, cổ vũ, động viên cán bộ, công nhân ngành điện trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ vang lên ở mọi nhà máy, trên công trường xây dựng điện: “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”, “Giữ vững dòng điện như giữ máu trong tim”, “Tất cả vì dòng điện không bao giờ tắt”… Tuy vậy, đến năm 1968, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất kết thúc, tất cả các nhà máy điện ít nhiều đều bị hư hỏng, do đó ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp điện cho các ngành công nghiệp khác, cho nông nghiệp, thủy lợi, sinh hoạt của nhân dân thành phố, thị xã.

Từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1972, tranh thủ lúc đế quốc Mỹ ngừng ném bom bắn phá, ngành điện khẩn trương khôi phục lại các nhà máy điện bị hư hỏng trong chiến tranh, đồng thời thi công nhanh các nhà máy điện mới như: Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Ninh Bình, mở rộng Nhà máy Điện Uông Bí đợt III. Đề phòng khả năng xấu nhất có thể xảy ra và phù hợp với chủ trương của Đảng về chuyển hướng xây dựng kinh tế trong thời chiến, từ năm 1969 trở đi, ngành điện đã gấp rút xây dựng trên 60 trạm diesel, 5 trạm nhiệt điện ở các vùng phụ tải quan trọng, vùng sơ tán và các khu vực nông nghiệp trọng điểm. Trong thời gian này, các ngành, các địa phương cũng xây dựng nhiều trạm diesel và thủy điện nhỏ để tự giải quyết nguồn điện của mình. Tổng công suất nguồn điện do ngành điện quản lý, đến cuối năm 1972 đạt 276 MW, tăng hơn so với năm 1965 là 95 MW21.

Tuy nhiên, một lần nữa hệ thống điện lực miền Bắc lại phải sơ tán và phân tán các xí nghiệp khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Trong cuộc chiến tranh phá hoại mang tính chất hủy diệt bằng máy bay B-52 này, các nhà máy điện bị đánh phá, hư hại nặng hơn lần trước. Tại Hà Nội, trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, tất cả các cơ sở sản xuất điện ở nội và ngoại thành đều bị máy bay B-52 đánh phá. Nhà máy Điện Yên Phụ là cơ sở cuối cùng của ngành điện bị máy báy Mỹ hủy diệt bằng bom laser. Tại đây, nhà xưởng, lò máy, kho tàng bị bom đánh sập hoàn toàn. Dọc tuyến đường dây Đông Anh - Uy Nỗ, cột điện gãy hàng loạt bên cạnh hàng nghìn hố bom. Trong một hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy nhưng dòng điện vẫn được bảo đảm và giữ vững. Việc bảo đảm nguồn điện của Thủ đô Hà Nội đã kịp thời truyền đi những mệnh lệnh của Đảng và Nhà nước trên làn sóng của Đài Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, góp phần quyết định thế trận chiến thắng B-52 trên bầu trời Hà Nội.

Sau chiến tranh phá hoại, ngành điện khẩn trương khôi phục các công trình điện lực bị đánh phá, đồng thời đẩy mạnh thi công các nhà máy điện còn chưa hoàn thành. Kết quả, đến cuối năm 1975, hầu hết các nhà máy điện đã được khôi phục lại hoạt động.

3. Kết luận

Nhận thức rõ tầm quan trọng của điện lực trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn để lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng, bảo vệ hệ thống điện lực miền Bắc. Nhìn chung, chủ trương, đường lối của Đảng là thường xuyên, liên tục, bao quát tất cả các vấn đề liên quan đến điện lực, đặc biệt là chú trọng tu bổ, xây dựng và bảo vệ các nhà máy nhiệt điện và thủy điện.

Trước năm 1965, ngành điện đã phát triển với nhịp độ đều đặn tương đối phù hợp với yêu cầu phát triển chung. Các công trình mới đã được xây dựng liên tiếp gối đầu từ năm này sang năm khác đủ đáp ứng các nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Điện cũng đã được bắt đầu đưa vào phục vụ nông nghiệp ở một số tỉnh đồng bằng.

Trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhờ sự lãnh đạo kịp thời của Đảng, ngành điện đã đứng vững trước những thử thách vô cùng khắc nghiệt, quyết định sự sống còn của một ngành công nghiệp quan trọng của đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước, ngành điện đã đóng góp một phần đáng kể vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế hậu phương miền Bắc XHCN. Nhờ các đường dây tải điện mới được xây dựng, hầu hết các khu công nghiệp, các nhà máy lớn, khu mỏ Quảng Ninh đã có điện ổn định phục vụ các cơ sở sản xuất. Từ khi có lưới điện đã đưa đến sự hình thành các khu công nghiệp như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh. Sự phát triển của mạng lưới điện cũng góp phần hình thành vùng trọng điểm lúa ở đồng bằng Bắc Bộ đưa năng suất lên 5 tấn, 8 tấn rồi 10 tấn/ha ở các tỉnh Thái Bình, Hà Tây, Nam Hà, Ninh Bình, Hải Hưng, Hải Phòng. Các khu công nghiệp trực tiếp sản xuất ra nhiều tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng và hàng xuất khẩu, góp phần quan trọng vào việc tích lũy vốn, đồng thời từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. "Những cơ sở về cơ khí, về điện, về luyện kim, về hoá chất, về khai khoáng, về vật liệu xây dựng xuất hiện và phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Từ đó góp phần biến đổi bộ mặt của đất nước, biến đổi xã hội và đời sống của người nông dân, công nhân các tầng lớp nhân dân khác"22.

Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng ngành điện cả nước bước vào một giai đoạn phát triển mới mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.

Ngày nhận bài:28-7-2024; ngày thẩm định: 24-10-2024; ngày duyệt đăng: 26-10-2024

1. Báo cáo tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 4, khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ ngày 20 đến 26-3-1955, in trong "Văn kiện Quốc hội Toàn tập", T. 1 (1945-1960), Nxb CTQG, H, 2005

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T. 19, tr. 480

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 21, tr. 573

4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 23, tr. 261, 261, 262

7. Quyết định của Hội đồng Chính phủ về việc phân tán, di chuyển các cơ sở của ngành công nghiệp năm 1965, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Bộ Công nghiệp nặng, Hồ sơ số 141

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, T. 26, tr. 510

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 29, tr. 137

10. Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 2574: Ý kiến của chuyên gia Liên Xô về vấn đề điện lực ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959

11, 14, 15, 17. Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Điện lực Việt Nam: Quá trình phát triển, Nxb Công thương, H, 2019, tr. 270, 245, 271, 409

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, T. 24, tr. 236

13, 18, 20, 21. Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 2966: Báo cáo tổng kết 25 năm (1955-1980) ngành điện lực của Bộ Điện lực

16. 30 năm hoạt động của Công ty Điện lực I, Nxb CTQG, H, 1999, tr. 30

19. Tổng Công ty Điện lực Việt Nam: Ngành điện lực Việt Nam 45 năm - Những chặng đường, H, tháng 12-1999, tr. 62-63

22. Văn kiện Quốc hội Toàn tập, T. III, “Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa III do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày ngày 27-6-1964”.