Tóm tắt: Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự đột phá tư duy lý luận của Đảng. Thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế. Đó là kết quả của quá trình nhận thức, tìm tòi, sáng tạo của Đảng. Bài viết tập trung làm rõ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay và những thành tựu đạt được.

Từ khóa: Tư duy lý luận; kinh tế thị trường; đổi mới

Đến cuối những năm 70, thế kỷ XX, Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, Đảng đã chủ động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, từng bước đổi mới tư duy về quản lí kinh tế HNTƯ 6 khóa IV (8-1979), với quan điểm làm cho sản xuất “bung ra”, mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các doanh nghiệp nhà nước, cho phép doanh nghiệp nhà nước vươn ra thị trường tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh. Đây là bước đột phá đầu tiên “tìm kiếm lối thoát” cho nền kinh tế, phá bỏ những rào cản, ràng buộc của cơ chế bao cấp và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW “về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”. Chỉ thị đã có tác động tích cực trong việc cải thiện công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm, giúp ngăn chặn sự suy thoái trong sản xuất nông nghiệp. Trong công nghiệp, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP và Quyết định số 26-CP (21-1-1981) về tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh cũng như mở rộng hình thức trả lương và tiền thưởng tạo ra động lực cho người lao động, giúp tăng cường sự năng động và hiệu suất làm việc trong các doanh nghiệp... Các biện pháp này đều nhằm mục đích tăng cường hiệu suất kinh tế, thúc đẩy sự tự chủ và động lực lao động, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-xã hội.

HNTƯ 8 khoá V (6-1985) bàn về giá-lương-tiền, đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế trên lĩnh vực lưu thông, phân phối. Hội nghị chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ; hoạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Điểm nổi bật là Hội nghị thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.

Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: về cơ cấu sản xuất; về cải tạo XHCN; về cơ chế quản lý kinh tế. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. 

Những tư duy đổi mới về kinh tế nêu trên tuy chỉ mới mang tính chất từng phần và chưa toàn diện, nhưng là bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho việc hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đảng trong giai đoạn tiếp theo.

1. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay  

Đại hội VI (1986) của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, mà “trước hết là đổi mới tư duy kinh tế”. Đại hội đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho sự xác lập thể chế KTTT định hướng XHCN. Đại hội nhấn mạnh: “Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”1. Điểm nổi bật trong đổi mới tư duy của Đảng là đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về xây dựng nền kinh tế quá độ đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Đến Đại hội VII (1991) của Đảng, tư duy kinh tế của Đảng đã tiến thêm một bước từ nhận thức lý luận đến chỉ đạo thực tiễn. Đại hội chủ trương: “Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa2. Để phát huy tiềm năng to lớn của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đại hội khẳng định: “phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước3. Như vậy, một lần nữa Đảng thừa nhận nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đây là bước tiến quan trọng trong nhận thức, trong tư duy kinh tế của Đảng.

Đại hội VIII (1996) tiếp tục có bước phát triển mới trong nhận thức tư duy của Đảng về KTTT định hướng XHCN. Đại hội khẳng định: “Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế của thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”4.

Như vậy có thể thấy rằng, quá trình đổi mới tư duy lý luận về KTTT định hướng XHCN được Đảng xác định ngày càng rõ và đầy đủ hơn qua các nấc thang nhận thức. Nếu trước đó, việc đổi mới tư duy trong kinh tế chỉ dừng lại ở các bước đột phá, thì việc khẳng định nhất quán và thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng như cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII là một bước tiến lớn trong nhận thức của Đảng. Điểm nổi bật trong tư duy lý luận của Đảng còn thể hiện ở nhận thức: KTTT không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà là sản phẩm chung của nhân loại. Việc Việt Nam phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế của thị trường hoàn toàn phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế phát triển của thế giới; đồng thời, khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài, trong đó, sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo; đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm tài chính, chịu sự điều tiết ngày càng nhiều của thị trường; thừa nhận cạnh tranh bình đẳng, giảm độc quyền và đặc quyền trong kinh doanh. Xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép tự do giao lưu hàng hoá, thống nhất thị trường cả nước… Như vậy, trong nhận thức về nền kinh tế trong giai đoạn xây dựng XHCN Việt Nam đến năm 2000 là: Vẫn coi thị trường chỉ là một cơ chế để điều tiết nền kinh tế, chưa xem thị trường một chỉnh thể hoàn chỉnh với cấu trúc nội tại và thiết chế vận hành. Chưa tiến tới quan niệm xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. Về thực chất, chưa coi KTTT là cơ sở kinh tế của xã hội tiến lên CNXH.

Tại Đại hội IX (2001) của Đảng, lần đầu tiên Đảng chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”5. Đại hội nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”6. Đây là một bước đột phá quan trọng, thể hiện sự phát triển tư duy hệ thống về mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Phản ánh bước phát triển mới về tư duy lý luận về kinh tế của Đảng, từ nhận thức KTTT như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức KTTT như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội xác định một loạt yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển KTTT: bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu phát triển tổng quát: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”7; "Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác … Tăng trưởng kinh tế gắn liền và bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển", "đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục"8

Đại hội X (2006) của Đảng nhận thức về mô hình KTTT định hướng XHCN được rõ ràng hơn, đã phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, quan điểm này tập trung vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh”. Trong mô hình này, mục tiêu phát triển của nền kinh tế không chỉ là tạo ra lợi nhuận, mà còn là giải phóng và phát triển sức sản xuất của xã hội, từng bước xây dựng tiền đề vật chất cho CNXH. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam nhấn mạnh vào việc phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất cho một xã hội công bằng và phát triển. Đại hội nhấn mạnh: “Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta”9.

Từ chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đến chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN, Việt Nam trải qua một quá trình từng bước hoàn thiện mô hình kinh tế tổng quát. Trên cơ sở đó, Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”10. Điểm mới trong tư duy và nhận thức của Đảng về KTTT định hướng XHCN tại Đại hội XI là khẳng định sự “bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài” của các thành phần kinh tế.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, X, XI, Đại hội XII (2016) của Đảng đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở Việt Nam cả về mục đích, phương hướng phát triển, định hướng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và quản lý… và nổi bật nhất và quan trọng hơn là tất cả đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, với mục tiêu là vì con người và phục vụ con người. Đó là “nền kinh tế thị trường  ngày càng hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”11, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đến Đại hội XIII (2021) của Đảng, mô hình KTTT định hướng XHCN được phác họa rõ nét và đầy đủ hơn, có nhiều nội dung mới với tính khái quát cao. Đại hội đã thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam ngày một hoàn thiện “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa...12. Đây là sự kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; đồng thời, là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng về nền KTTT định hướng XHCN.

3. Một số thành tựu cơ bản trong nhận thức và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Về nhận thức

Trong quá trình đổi mới, Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn về KTTT. Coi KTTT là phương thức, yêu cầu cốt yếu để xây dựng CNXH; từ chỗ chỉ thừa nhận cơ chế thị trường, đến khẳng định dứt khoát mô hình KTTT. Nhận thức rõ ràng về vai trò của thị trường trong việc phân bổ nguồn lực kinh tế, tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đảng đã từng bước nhận thức rõ hơn về chế độ sở hữu và đa dạng hóa thành phần kinh tế: Thừa nhận và khuyến khích sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhận thức về vai trò của Nhà nước trong việc định hướng và điều tiết thị trường, bảo đảm phát triển bền vững và công bằng xã hội, trong khi vẫn tôn trọng quy luật của KTTT, tạo ra sự cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng.

Vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế, tham gia quản lý kinh tế cũng được nhận thức ngày càng rõ hơn, với chủ trương thực hiện mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

 Trong nhận thức về quá trình hội nhập quốc tế, Đảng đã hiểu rõ tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, với chủ trương tích cực tham gia vào các hiệp định thương mại và tổ chức kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài.

Vai trò lãnh đạo của Đảng cũng được nhận thức rõ hơn, trong đó nhấn mạnh Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, trong nhận thức của Đảng vẫn còn những tồn tại hạn chế, trong đó, Đảng chưa xây dựng được hoàn chỉnh khung lý luận về KTTT định hướng XHCN. Hệ thống thị trường chưa đồng bộ, môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được hoàn thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế, chính sách chưa theo kịp thực tiễn; cần có sự điều chỉnh, cải tiến về cả năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính sách để đáp ứng yêu cầu của thị trường và xã hội; cần tìm ra cách kết hợp hợp lý giữa quá trình tự do hóa kinh tế và dân chủ hóa xã hội, để tạo ra một môi trường kinh doanh và xã hội phát triển bền vững.

Về thực tiễn

Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong nhiều năm liên tiếp, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023 quy mô nền kinh tế Việt Nam theo GDP đạt khoảng 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2023 theo giá hiện hành đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, tăng 160 USD so với năm 202213.

Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát triển đa dạng. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành và cơ bản đã phát triển, có sự liên kết, liên thông, gắn kết với thị trường quốc tế. Việt Nam đã thành công trong việc hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ, nhất là trong xây dựng quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư:năm 2023, Việt Nam thu hút 36,61 tỷ USD vốn FDI, tăng hơn 32% so với 2022 và là mức cao thứ 3 trong 15 năm gần đây. Vốn thực hiện đạt kỷ lục với khoảng 23,18 tỷ USD. Hai tháng đầu năm 2024, dòng vốn ngoại vẫn tích cực “đổ bộ”, đạt gần 4,29 tỷ USD, tăng 38,6% so với cùng kỳ14. Tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng, tạo sự đột phá và bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển “tăng từ gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2017”15.

Bên cạnh thành tựu đạt được, s phát triển kinh tế chưa đồng đều giữa các vùng miền, với khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa khu vực đô thị và nông thôn. Kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Hệ thống pháp luật và thể chế KTTT chưa hoàn chỉnh và chưa đồng bộ, dẫn đến nhiều bất cập trong thực thi chính sách. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Một số yếu tố thị trường chưa đồng bộ. Phát triển kinh tế chưa bền vững, các vấn đề về môi trường và tài nguyên. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại, với thiếu hụt kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm.

 Quá trình nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được thể hiện rõ qua các kỳ đại hội của Đảng từ năm 1986 đến nay. Trong quá trình đó,  Đảng đã nhận thức ngày càng rõ, sát thực tế hơn về tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng XHCN. Đây là kết quả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Những thành tựu đã đạt được là minh chứng rõ nhất, khẳng định việc lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người. 


Ngày nhận: 9-1- 2024 ; ngày thẩm định đánh giá: 18-8-2024; ngày duyệt đăng: 29-8-2024


1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 902

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 19, 21

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2015, T. 55, tr. 439

5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2003, tr. 86, 86, 22, 88  

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.187

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 73

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 102

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 128

 13. Tổng Cục Thống kê: “Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2023”, https://www.gso.gov.vn/bai-top/2023/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2023, truy cập ngày 23-7-2024

14. Tiềm năng và cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/chuyen-de/25898-tiem-nang-va-co-hoi-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-cua-viet-nam, ngày đăng 25-3-2024.

15. “30 năm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/chuyen-de/12063-30-nam-dau-tu-nuoc-ngoai-vao-viet-nam, truy cập ngày 23-7-2024.