Tóm tắt: Từ sau Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng đến nay, đất nước bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Đảng đã đổi mới nhận thức, quan điểm và ban hành một số nghị quyết quan trọng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, luôn coi kiều bào là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhiều chính sách mới của Đảng và Nhà nước được triển khai đã tạo được sự quan tâm, chia sẻ và thu hút nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết trình bày quan điểm, chủ trương của Đảng về người Việt Nam ở nước ngoài (từ 1996 đến nay) và những kết quả đạt được.

Từ khóa: Quan điểm của Đảng; người Việt Nam ở nước ngoài; nguồn lực; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước



Thanh niên, sinh viên người Việt Nam ở nước ngoài trong lễ khai mạc Trại hè Việt Nam 2023


1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1996 đến nay
Nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngày 29-11-1993 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về “Chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng với những quan điểm mới rất cơ bản và có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược lâu dài về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN). Tuy nhiên, nội dung Nghị quyết chưa được triển khai cụ thể.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Đại hội VIII (1996) của Đảng đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: “Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo hộ quyền lợi chính đáng, giúp đỡ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết tương trợ, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc; tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về thăm quê hương, giúp đỡ gia đình, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng đất nước”1.
Ngày 26-3-2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Nghị quyết khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng luôn coi bà con kiều bào là bộ phận không thể tách rời, một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam; đồng thời nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng của kiều bào và bảo hộ công dân: Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng NVNONN, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với NVNONN2.
Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và để tạo thêm động lực cũng như những bước đột phá mới trong công tác đối với NVNONN, ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW “Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”. Chỉ thị nhận định, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã góp phần tích cực vào việc tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ vũ, động viên NVNONN nâng cao ý thức tự hào dân tộc, lòng yêu nước, gắn bó với quê hương đất nước. Phần lớn kiều bào đã có địa vị pháp lý, ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội nơi họ đang sống và làm việc. Tiếng Việt được sử dụng là ngôn ngữ chính của cộng đồng NVNONN song hành cùng tiếng nói của nước sở tại. Bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc Việt Nam được bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Vai trò của cộng đồng NVNONN ngày càng nâng cao, thực sự là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là cầu nối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới3.  
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chỉ thị số 45-CT/TW nêu rõ những hạn chế, bất cập còn tồn tại. Một số cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NVNONN bảo tồn, phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá của dân tộc và góp phần xây dựng đất nước còn chậm, chưa đồng bộ. Vẫn còn một bộ phận NVNONN chưa có địa vị pháp lý ổn định. Vẫn còn thành phần giữ thái độ định kiến, mặc cảm; một số ít người còn có tư tưởng, hành động không phù hợp với lợi ích dân tộc. Những hạn chế, bất cập trên, chủ yếu là do một số cơ quan Trung ương và địa phương nhận thức chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, thống nhất về công tác đối với NVNONN4.
Trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế, Bộ Chính trị nêu rõ: Trong thời gian tới, cộng đồng NVNONN sẽ tiếp tục gia tăng cả về số lượng và địa bàn cư trú, có cuộc sống ngày càng ổn định, có tiềm lực về tri thức và kinh tế, có vị trí và ảnh hưởng trong xã hội nước sở tại. Tình hình quốc tế, trong nước và những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi công tác đối với NVNONN cần được tăng cường và coi trọng hơn5.
Bộ Chính trị nhắc lại quan điểm: NVNONN là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tăng cường hơn nữa sự gắn bó của NVNONN với đất nước. Mọi người Việt Nam ở nước ngoài đều được khuyến khích, tạo điều kiện trở về thăm quê hương, đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; đồng thời bổ sung quan điểm: “Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung”, “chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”, đồng thời nhấn mạnh “tiếp tục quan tâm, sớm có giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Kiên trì vận động, thuyết phục những người còn giữ định kiến, mặc cảm”6. Như vậy, đoàn kết vừa là nền tảng vừa là mục tiêu của công tác NVNONN.
Nhằm phát huy vai trò tích cực của cộng đồng NVNONN trong sự nghiệp CHN, HĐH và hội nhập quốc tế, Đại hội XII (2016) của Đảng nêu rõ: “Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”7.
Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng chủ trương “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8.
Ngày 12-8-2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 12-KL/TW “Về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới” nhấn mạnh việc cần thiết thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng NVNONN, đồng thời tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện để đồng bào hướng về quê hương. Triển khai có hiệu quả chủ trương đoàn kết dân tộc đối với đồng bào Việt Nam ở nước ngoài là nhiệm vụ hàng đầu nhằm góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Hiện nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, việc bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của NVNONN nhất là về địa vị pháp lí rất quan trọng, để cộng đồng có thể ổn định cuộc sống lâu dài. Vì vậy, trong triển khai chính sách đối ngoại của Đảng, NVNONN luôn chiếm vị trí đặc biệt. Việc thúc đẩy quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước sẽ hỗ trợ tích cực đối với cộng đồng người Việt Nam ở các nước, tạo thuận lợi cho NVNONN ổn định cuộc sống, phát triển và phát huy vai trò với sở tại. Nếu NVNONN phát triển, hội nhập tốt có nhiều đóng góp vào xã hội nước sở tại sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Từ nhận thức trên, khi đón tiếp nguyên thủ, lãnh đạo các nước có nhiều kiều bào sinh sống tới thăm Việt Nam, cũng như trong các chuyến thăm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam tới các nước, Việt Nam luôn đề nghị Chính phủ các nước quan tâm, tạo thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam. Lãnh đạo các nước đánh giá cao sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với NVNONN. Nhiều thoả thuận, hiệp định hỗ trợ tư pháp được ký kết ở cấp Chính phủ với các nước tạo cơ sở pháp lý cho kiều bào ổn định cuộc sống, hội nhập và phát triển ở nước sở tại.
Như vậy, có thể thấy rằng nhận thức của Đảng về NVNONN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, từ năm 1996 đến nay thể hiện sự nhất quán về khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Trong đó NVNONN là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của NVNONN trên cơ sở pháp luật của Việt Nam, pháp luật nước sở tại và luật pháp quốc tế. Các chính sách của Nhà nước ngày càng đồng bộ hơn, hướng tới hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng NVNONN ổn định và phát triển bền vững. Trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Chính trị nhấn mạnh đây là nhiệm vụ quan trọng, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân nhằm phát huy vai trò của NVNONN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Một số kết quả của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Từ năm 1996 đến nay, trên cơ sở nhận thức mới, các chủ trương, chính sách của Đảng đối với NVNONN, công tác thu hút nguồn lực NVNONN ngày càng được chú trọng. Cộng đồng NVNONN ngày càng gắn bó và hướng về quê hương, thực sự trở thành một bộ phận không tách rời và một nguồn lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng, phát triển, hội nhập và bảo vệ đất nước.
Lượng kiều hối gửi về trong nước liên tục tăng hàng năm, kể cả trong bối cảnh khó khăn do đại dịch COVID-19. Chỉ tính năm 2022, theo Ngân hàng Thế giới, tổng lượng kiều hối về Việt Nam tăng 5% so với năm 2021, tương đương gần 19 tỷ USD, Việt Nam tiếp tục là một trong 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới9. Năm 2023, kiều bào có 385 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký hơn 1,7 tỷ USD.
Đề án “Huy động người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng Việt Nam ở nước ngoài, giai đoạn 2020 – 2024” của Bộ Ngoại giao được triển khai tích cực. Theo đó, Bộ Ngoại giao chủ động thúc đẩy việc thành lập các tổ chức của NVNONN mới, như Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Thụy Điển và Hội Doanh nhân Việt Nam tại Trung Lào để tập trung nguồn lực NVNONN; tiếp tục vận động lãnh đạo các tổ chức, trung tâm thương mại của NVNONN trở thành đầu mối nhập khẩu trực tiếp, tích cực mở rộng, củng cố cơ sở kinh doanh để tăng diện tích mặt bằng trưng bày, giới thiệu, tiêu thụ hàng Việt Nam. Bộ Ngoại giao cũng thiết lập kênh tiêu thụ hàng hoá Việt Nam (tại Campuchia, Hungary, Lào, Nga...)10.
Về nguồn lực chất xám, cộng đồng NVNONN có lực lượng chuyên gia, trí thức, các nhà khoa học luôn hướng về quê hương, chủ động bày tỏ nguyện vọng được đồng hành cùng Chính phủ và nhân dân trong nước, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Bộ Ngoại giao tích cực triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nguồn lực trí thức NVNONN thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động kết nối, thu hút nguồn lực kiều bào với nhiều hình thức đa dạng. Trong các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, chuyển đổi xanh, hỗ trợ nông nghiệp... với số lượng, quy mô kết nối, hỗ trợ kiều bào ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao cũng tích cực phối hợp, hỗ trợ các hội chuyên gia, trí thức NVNONN trong công tác tổ chức nhiều Hội nghị, hội thảo về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục... thu hút sự tham dự của các chuyên gia nước ngoài, trong đó có sự tham gia của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới11.
Hằng năm, trung bình có khoảng 300 - 500 lượt chuyên gia, trí thức, nhà khoa học NVNONN về nước tham gia các hoạt động khoa học và công nghệ, triển khai các dự án hợp tác trong giảng dạy, đào tạo nhân lực, nghiên cứu phát triển (R&D), đẩy mạnh ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam12. Các chuyên gia, trí thức, nhà khoa học NVNONN được mời làm tư vấn, đóng góp ý kiến cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô cũng như việc giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể cần tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế.
Đặc biệt, trong những năm đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp (2020-2021), các chuyên gia, trí thức kiều bào đã trực tiếp kết nối, vận động các cơ quan, chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp nước sở tại hỗ trợ vắc xin cho Việt Nam và thúc đẩy chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin, chia sẻ kinh nghiệm phòng chống dịch ở nước sở tại và đưa ra nhiều đề xuất, khuyến nghị hữu ích cho các cơ quan Trung ương và địa phương trong nước. Hàng loạt chương trình trao đổi, tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống dịch, bảo vệ sức khỏe cộng đồng giữa đội ngũ bác sỹ, chuyên gia kiều bào trong lĩnh vực y khoa với các cơ quan, người dân trong nước đã được triển khai tổ chức dưới hình thức trực tuyến. Có thể nói, sự đóng góp của các cá nhân NVNONN là chuyên gia, trí thức, nhà khoa học trong thời gian qua đã khẳng định khát khao cống hiến trí tuệ cho quê hương, đất nước.
Kiều bào đã quyên góp ủng hộ 80 tỷ đồng về nước cùng nhiều trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng chống dịch COVID-19 và Quỹ vắc xin phòng chống COVID-19. Kiều bào ở nhiều nước đã tích cực phối hợp với các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tham gia triển khai công tác ngoại giao vắc xin, vận động hỗ trợ vắc xin và vật phẩm y tế cho Việt Nam. Gần 30 tổ chức, hội đoàn người Việt ở các nước đã phát động các chiến dịch ủng hộ quê nhà như “Chung tay vì Việt Nam” và “10.000 liều vắc xin cho Việt Nam". Với tấm lòng hướng về quê hương, nhiều NVNONN đã lập ra các nhóm thiện nguyện, tổ chức gây quỹ trong cộng đồng ở sở tại để hỗ trợ y, bác sỹ, người dân khó khăn trong khu cách ly13.
Cùng với nhu cầu về Việt Nam thăm thân, du lịch của kiều bào ngày càng lớn (mỗi năm có khoảng 700.000 đến 1 triệu lượt kiều bào về nước)14. Tháng 8-2023, Ủy ban Nhà nước về NVNONN đã phối hợp với Cục Du lịch quốc gia Việt Nam tổ chức Hội thảo: Thu hút nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển du lịch, hướng tới sự kiện “Năm du lịch kiều bào” triển khai tại các địa phương trong năm 2024 nhằm khai thác thị trường du lịch kiều bào.
Năm 2023, trong chuyến thăm quân, dân huyện đảo Trường Sa và nhà giàn DK1, kiều bào đã huy động được gần 1,8 tỷ đồng ủng hộ Chương trình Xanh hóa Trường Sa. Trước đó, từ năm 2022, kiều bào đã có những ủng hộ thiết thực như đóng nhiều xuồng máy phục vụ bảo vệ chủ quyền, trị giá hơn 2 tỷ đồng15. Các hoạt động này đã giúp nâng cao lòng tự hào dân tộc, tăng cường sự gắn kết, tình cảm của kiều bào với quê hương, đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, từ năm 1996 đến nay, nhận thức của Đảng đối với NVNONN, có những điểm mới căn bản so thời kỳ cả nước xây dựng CNXH, bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới trước đó. Nhận thức của Đảng đã thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện quan điểm đổi mới cũng như cách nhìn nhận mới, cởi mở, thông thoáng hơn, xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa vận động và bảo vệ, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của kiều bào, tạo thuận lợi cho bà con ổn định cuộc sống, hội nhập và phát triển; đồng thời, hướng về quê hương, đất nước; gắn lợi ích của cộng đồng với lợi ích chung của toàn dân tộc; tạo hòa giải, hòa hợp, xây dựng lòng tin giữa người Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, từ đó khơi dậy lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, tinh thần “con Lạc cháu Hồng” cùng nhau chung sức xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, phồn vinh.
 



Ngày nhận bài: 7-10-2023; ngày thẩm định, đánh giá: 25-12-2023; ngày duyệt đăng: 30-12-2023
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2015, T, 55, tr. 405
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Nxb CTQG, H, 2004, tr. 8
3, 4, 5, 6. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/chi-thi-so-45-cttw-ngay-1952015-cua-bo-chinh-tri-ve-viec-tiep-tuc-day-manh-thuc-hien-nghi-quyet-so-36-nqtw-cua-bo-chinh-168
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H, 2016, tr.165-166
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, H, 2021, T. 1, tr.171-172
9, 13, 14, 15. Bộ Công an, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận trung ương: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Giữ vững lòng dân và xây dựng “thế trận lòng dân” trong bảo vệ Tổ quốc từ lịch sử đến hiện tại và bài học kinh nghiệm, Nxb Công an nhân dân, H, 2023, tr.167, 168-169, 167, 169
10. Hội thảo "Xúc tiến thủy sản sang thị trường Úc”, Tọa đàm “Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang EU", Tọa đàm “Thúc đẩy xuất khẩu nông thủy sản sang Trung Quốc”, Tọa đàm “Đẩy mạnh hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với Liên minh châu Âu", Hội thảo trực tuyến "Thúc đẩy thương mại - đầu tư giữa Việt Nam với các nước Trung Đông - châu Phi trong các lĩnh vực tiềm năng về Halal"...
11. Hội nghị "One Global ” (năm 2021) của Tổ chúc Khoa học và gia Việt Global, Diễn dàn “Smart City Việt Nam” của Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam tại châu Âu (Vin EU) chuỗi 2022. Chương trình nghị sự “Triển lãm Nông nghiệp thông minh tại Việt Nam” (năm 2022), “Xây dựng nông nghiệp thông minh - từ nông trại đến bàn ăn” của Mạng lưới Đổi mới sáng tạo tại Úc (năm 2023)
12. Chưa bao gồm số lượng chuyên gia, trí thức kiều bào về Việt Nam tham dự hội nghị, hội thảo và các đoàn trao đổi ngắn hạn.