Tóm tắt: Đắk Lắk là tỉnh ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng của cả nước. Tỉnh Đắk Lắk ngày nay được chia tách từ tỉnh Đắk Lắk trước đây theo Nghị quyết số 22/2003/QH11, ngày 26-11-2003, của Quốc hội khóa XI. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 13.125,37 km2, dân số khoảng 1,9 triệu người, với 49 dân tộc cùng sinh sống, chiếm 35,7% tổng dân số, trong đó các các dân tộc thiểu số tại chỗ, như Êđê, Giarai, Mnông phân bố ở đều khắp các xã, phường, thị trấn trên địa bàn toàn tỉnh. Qua hơn 20 năm (2003-2024), thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tỉnh Đắk Lắk đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra bước tiến đáng kể về kinh tế, văn hóa, ổn định chính trị và an sinh xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế.

Từ khóa: Chính sách dân tộc; dân tộc thiểu số; tỉnh Đắk Lắk; 2003 - 2024

1. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt công tác dân tộc. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12-3-2003 “về công tác dân tộc” của BCHTƯ khóa IX xác định: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”1. Đến năm 2021, Đại hội Đảng XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung hoàn thiện và  triển  khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù  giải  quyết  khó  khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc”2.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”3.

Đối với vùng đất Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống, luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm lãnh đạo phát triển toàn diện. Ngày 17-6-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 87/2009/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể tỉnh Đắk Lắk thời kỳ đến 2020 với mục tiêu tổng quát là “đẩy nhanh việc xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng Đắk Lắk trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Nguyên, “một cực phát triển” trong tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia. Phát triển kinh tế - xã hội phải góp phần củng cố khối đoàn kết các dân tộc, tăng cường năng lực quản lý, điều hành của hệ thống chính trị các cấp, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững trật tự, an toàn xã hội”4.

Ngày 18-12-2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 936/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020”, trong đó nêu rõ: “khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng Tây Nguyên; đẩy mạnh hội nhập quốc tế” và “sử dụng tốt mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội của vùng so với cả nước”5. Tiếp đó ngày 18-2-2014, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 276/QĐ-TTg về việc kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW ngày 24 tháng 10 năm 2011 của BChính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-KL/TW của BChính trị (khóa IX) phát triển vùng tây nguyên thời kỳ 2011 – 2020đã nhấn mạnh đến công tác củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, giữa vững trật tự an toàn xã hội.

Ngày 9-3-2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 286/QĐ-TTg về Phê duyệt điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Quyết định này đã nêu rõ mục tiêu của tỉnh Đắk Lắk là: “phấn đấu đến năm 2020 và những năm tiếp theo, kinh tế Đắk Lắk đi theo hướng “xanh”, bền vững, khai thác các lợi thế phát triển theo chiều sâu, liên kết mở, hội nhập khu vực và quốc tế… Phát triển các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đi đầu trong các hoạt động ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất; nâng cao rõ rệt chất lượng nguồn nhân lực, mức thụ hưởng của người dân về y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Đảm bảo vững chắc an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái. Phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm quốc phòng an ninh”6.

Quán triệt và thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về chính sách dân tộc, tỉnh Đắk Lắk đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện của tỉnh. Ngày 17-11-2004, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (lâm thời) đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU “về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2010”, xác định phương hướng chung là: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội buôn, thôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, phải gắn với định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ7. Tiếp đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 14-1-2005 “về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đến năm 2010”.

Năm 2005, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010 đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, trong đó xác định: “Đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; … thực hiện tốt chính sách dân tộc và các chính sách xã hội khác, bảo đảm công bằng xã hội…”8.

Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 09-CTr/TU ngày 7-11-2006 “về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010”, trong đó xác định chủ trương tiếp tục tốt chính sách dân tộc, phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào DTTS.

Đến năm 2010, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015, đã xác định nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện tốt chính sách dân tộc: “Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, cách mạng và văn hóa đặc trưng của dân tộc. Quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tập trung giảm tỷ lệ hộ nghèo, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào DTTS…”9.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kết luận số 19-KL/TU, ngày 27-2-2011 “tiếp tục thực hiện chương trình phát triển kinh tế thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020”.

Ngày 25-11-2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chỉ thị số 18-CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030”. Đến ngày ngày 22-11-2023 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk tiếp tục ban hành Chỉ thị số 44-TC/TU “về việc tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ IV năm 2024”. Chỉ thị xác định đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong đồng bào các DTTS, góp phần nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị về chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra10.

Triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk đã ban hành nhiều chính sách cụ thể. Nghị quyết số 18/NQ-HĐND ngày 10-12-2010 của HĐND tỉnh Đắk Lắk “về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2010-2015”, đề ra mục tiêu: “Kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm quốc phòng an ninh để từng bước xây dựng tỉnh  Đắk  Lắk  trở thành  trung  tâm  kinh tế,  văn  hóa,  xã  hội  của  vùng  Tây Nguyên…”11.

Nghị quyết số 137/2014/NQ-HĐND, ngày 13-12-2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, xác định mục tiêu: “chú trọng hỗ trợ phát triển sinh kế và hạ tầng xã hội cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, giảm nghèo bền vững nhằm thu hẹp khoảng cách thụ hưởng đời sống văn hóa, xã hội giữa các khu vực trong tỉnh…”12. Nghị quyết số 186/NQ-HĐND ngày 7-1-2016 của HĐND tỉnh Đắk Lắk “về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tỉnh Đắk Lắk 5 năm giai đoạn 2016-2020, đã xác định: “... Phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bảo đảm quốc phòng, an ninh…”13.

Nghị quyết số 02/NQ-HĐND ngày 3-5-2024 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về hỗ trợ kinh phí xây dựng 1.200 căn nhà cho hộ nghèo, khó khăn về nhà ở, gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh năm 2024; Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 3-5-2024 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về việc điều chỉnh cập nhật chi tiết danh mục dự án đầu tư và phân bổ phân vốn phân bổ sau từ nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 5 năm (2021-2025) thực hiện Chương trình mục tiêu quốc  gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;

Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh Đắk Lắk cũng ban hành nhiều Nghị quyết, Chương trình, Quyết định thực hiện những chính sách cụ thể về dân tộc, như: Quyết định số 1769/QĐ-UBND, ngày 23-9-2005 “về bố trí vốn đầu tư trực tiếp cho 13 buôn tại 13 huyện, thành phố để thí điểm các mô hình đầu tư thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn”; Chương trình 655/CTr-UBND, ngày 16-2-2012 “về phát triển kinh tế - xã hội thôn, buôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đến năm 2015”, Quyết định 2652/QĐ-UBND, ngày 25-9-2017 của UBND tỉnh “phê duyệt Đề án thực hiện chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2017-2020”; Quyết định số 353/QĐ-UBND, ngày 16-2-2017 “phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào dân tộc thiểu số gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015 tỉnh Đắk Lắk”; Kế hoạch số 5479/KH-UBND, ngày 4-8-2014 “về triển khai chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020”;…

Quyết định 2652/QĐ-UBND, ngày 25-9-2017 của UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt Đề án thực hiện chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2017-2020; Quyết định số 353/QĐ-UBND, ngày 16-2-2017 phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào dân tộc thiểu số gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015 tỉnh Đắk Lắk; Kế hoạch số 5479/KH-UBND, ngày 4-8-2014 triển khai chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020”; Kế hoạch số 119/KH-UBND ngày 7-6-2022 triển khai thực hiện “Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh, trong đó, xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Kế hoạch số 11768/KH-UBND ngày 30-11-2021 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế và tinh thần tự lực vươn lên của đồng bào để phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi; Kế hoạch số 50/KH-UBND ngày 21-3-2024 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã được tổ chức triển khai thực hiện một cách đồng bộ, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

2. Một số kết quả đạt được

Trong giai đoạn 2003-2024, kinh tế-xã hội tỉnh Đắk Lắk đã có những bước tiến quan trọng, làm thay đổi bộ mặt của tỉnh. Tính đến giữa năm 2024, giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 25.493 tỷ đồng, tăng 4,13% so với cùng kỳ năm 202314. Kết quả này góp phần có tác động tích cực lên các vấn đề xã hội, nhất là tại vùng đồng bào DTTS của tỉnh.

Chương trình xóa đói giảm nghèo và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi của tỉnh Đắk Lắk đã chuyển biến nhanh chóng, số lượng và tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm, trong đó có nhiều hộ gia đình DTTS. Đến năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS giảm được 3,38%, từ 23,08% xuống còn 19,7% (so với mức 46,19% năm 2003 và 59,9% năm 2005)15, số hộ nghèo giảm được 4.753 hộ, từ 35.982 hộ xuống còn 31.229 hộ16.

Cùng với công tác xóa đói, giảm nghèo, công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, tuyên truyền vận động kế hoạch hóa gia đình cho đồng bào DTTS được chú trọng, công tác vệ sinh phòng dịch vùng DTTS đã được triển khai kịp thời, có hiệu quả. Các chỉ số cơ bản về sức khỏe của người DTTS đã cải thiện theo chiều hướng tích cực. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng đầu tư về trang thiết bị, bố trí đội ngũ bác sỹ, y sỹ có tay nghề về công tác tại các trạm y tế xã để thực hiện công tác khám chữa bệnh cho đồng bào ở các thôn, buôn. Đến nay 15/15 huyện có bệnh viện, 184 xã, phường, thị trấn có trạm y tế, thôn, buôn có nhân viên y tế, 100% đồng bào DTTS là hộ nghèo được cấp bảo hiểm y tế17.

Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo và cận nghèo ở xã, thôn, buôn đặc biệt khó khăn đã cơ bản xóa nhà tạm tại các địa bàn vùng đồng bào DTTS của tỉnh, giúp một số hộ dân có nhà riêng, ổn định cuộc sống, phần nào đã hỗ trợ được nước sinh hoạt cho những vùng thường xuyên thiếu nước. Chương trình nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, tỷ lệ hộ đồng bào DTTS nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh (bao gồm cả nước sạch) đạt 94,23% (126.611/134.371 hộ). Trong đó, tỷ lệ hộ đồng bào DTTS sử dụng nước sạch đạt 16,24%, số hộ đồng bào DTTS sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 77,99%18.

Cùng với việc nâng cao đời sống vật chất, các giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh cũng được nâng lên. Công tác tuyên truyền về nâng cao đời sống văn hóa được thực hiện tốt từ tỉnh đến cơ sở, góp phần nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào các DTTS về việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Các lễ hội truyền thống được quan tâm phục dựng; các ngày hội thể thao khu vực, của từng dân tộc thường xuyên được tổ chức. Hoạt động lễ hội đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng, tạo không khí vui tươi, lành mạnh, phấn khởi, góp phần tăng cường mối giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Công tác tổ chức tuyên truyền về việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống  diễn ra rộng khắp từ tỉnh đến cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào các DTTS của dân tộc. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát thanh truyền hình, thông tin liên lạc được quan tâm đầu tư đến các xã, vùng DTTS và miền núi. Do đó, tỷ lệ hộ gia đình có kết nối mạng internet nhằm phục vụ cho các nhu cầu về thông tin, giải trí đã tăng từ 9,48% lên 59,06% năm 202019. Ngành văn hóa tỉnh Đắk Lắk đã triển khai mở lớp tập huấn, hướng dẫn truyền dạy văn hóa truyền thống, xây dựng mô hình câu lạc bộ văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, Nùng, Mường tại nhiều nơi, tiêu biểu như tại xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng và thể dục thể thao thành tích cao tiếp tục được tỉnh quan tâm phát triển.

Về giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục tỉnh Đắk Lắk đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo toàn tỉnh có 7/17 trường phố thông dân tộc nội trú (PTDTNT) đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 6 trường PTDTNT cấp huyện và 1 trường PTDTNT cấp tỉnh). Việc thực hiện chế độ chính sách cho học sinh DTTS được triển khai đầy đủ, kịp thời như cấp học bổng, hỗ trợ chi phí học tập, chế độ cho học sinh dân tộc nội trú, học sinh ở bộ phận bán trú dân nuôi. Cụ thể, học sinh được cấp học bổng với mức 80% của mức lương cơ bản, gồm 15 trường PTDTNT cấp huyện với quy mô 160 học sinh/trường; 2 trường PTDTNT cấp trung học phổ thông với quy mô 920 học sinh/trường, trong đó trường THPT N’Trang Lơng có 535 học sinh; trường THPT Đam San có 385 học sinh. Toàn tỉnh có 6 trường phổ thông dân tộc bán trú với gần 3.000 học sinh được hưởng chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú mức hưởng bằng 40% mức lương cơ bản20.

Nhằm gìn giữ, bảo tồn các giá trị về ngôn ngữ các dân tộc tại chỗ, tỉnh thực hiện đưa tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc vào chương trình giảng dạy. Toàn tỉnh có 97 trường tiểu học, 14 trường trung học cơ sở dạy học tiếng Êđê; 136 giáo viên dạy tiếng Êđê, trong đó có 120 giáo viên cấp tiểu học và 16 giáo viên nội trú21.

Về xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ người DTTS, hng năm UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan đơn vị trên cơ sở chỉ tiêu biên chế được giao, xây dựng kế hoạch và đăng ký nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức, trong đó có bố trí biên chế và vị trí việc làm hợp lý để tuyển dụng người DTTS vào làm việc tại các cơ quan, đơn vị. Tỉnh có chính sách ưu tiên, ưu đãi khi thi tuyển dụng, cộng điểm cho các sinh viên thuộc diện ưu tiên khi tham gia thi tuyển hoặc xét tuyển. Kết quả, giai đoạn 2016 - 2023, đã tuyn dụng 1.149/7.049 cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS22, trong đó chủ yếu là viên chức ngành giáo dục và ngành y tế. Các chính sách ưu tiên, đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS được thực hiện đúng quy định như: phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút, công tác lâu năm; phụ cấp thâm niên, phụ cấp khu vực. Việc bố trí sắp xếp và sử dụng cán bộ DTTS trên cơ sở công tác quy hoạch cán bộ, các cấp ủy đảng đã chú trọng bố trí cán bộ phù hợp với trình độ chuyên môn, chuyên ngành đào tạo nhằm phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ DTTS trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công tác an ninh quốc phòng ở vùng DTTS trong tỉnh cũng luôn được cấp ủy, chính quyền và lực lượng vũ trang các cấp trong tỉnh đã chủ động nắm tình hình, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các đối tượng phản động, chống đối. Các lực lượng vũ trang thường xuyên tuần tra, bám sát địa bàn, nhất là tuyến biên giới (với 4 xã thuộc 2 huyện Buôn Đôn và Ea Súp) và các địa bàn trọng điểm về an ninh, trật tự. Tỉnh luôn chú trọng công tác xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, chủ động nắm chắc diễn biến tình hình, giải quyết những mâu thuẫn nội bộ ngay từ cơ sở, kiên quyết không để xảy ra các “điểm nóng”, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Đồng thời, chủ động ngăn chặn các hoạt động chống phá khối đại đoàn kết dân tộc thông qua “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lôi kéo, kích động đồng bào các DTTS tham gia vào các hoạt động chống nhà nước. Do vậy, tình hình an ninh trên các lĩnh vực cơ bản được đảm bảo, tội phạm hình sự được kiểm soát.

Tuy việc thực hiện sách dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2003-2024 đạt được nhiều kết quả nổi bật nhưng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Tuy kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhưng vẫn là vùng khó khăn nhất của cả tỉnh. Số hộ nghèo trong đồng bào DTTS vẫn còn cao, số hộ thoát nghèo nhưng chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo, đói giáp hạt khi có thiên tai, dịch bệnh xảy ra vẫn còn. Tổng số hộ nghèo tính đến cuối năm 2023 vẫn còn cao, gồm có 46.091 hộ, số hộ nghèo DTTS là 31.229 hộ, chiếm tỷ lệ 19,7% số hộ nghèo toàn tỉnh. Tổng số hộ cận nghèo toàn tỉnh là 34.230 hộ, số hộ cận nghèo DTTS là 18.957 hộ, chiếm tỷ lệ 55,4% số hộ cận nghèo toàn tỉnh23. Một bộ phận đồng bào DTTS có mức sống thấp, thu nhập bình quân đầu người dưới mức chung của tỉnh24. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất ở tỉnh còn chậm, lúng túng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức. Trước nguy cơ mai một, một số làng nghề truyền thống của đồng bào DTTS, trong đó có dệt thổ cẩm, tỉnh đã có đầu tư khôi phục nhưng hoạt động chưa hiệu quả như ở xã Ea Tul, huyện Cư M’gar, buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột…

Mặc dù có nhiều tiến bộ, song nhìn chung chất lượng giáo dục trong học sinh DTTS nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ trẻ nhà trẻ người DTTS ra lớp đạt 6,5%; tỷ lệ trẻ mẫu giáo người DTTS ra lớp đạt 82,4%. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học tăng, tăng từ 1,30% tổng số học sinh năm học 2010-2011 lên 2,10% năm học 2019-202025. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu của nhân dân. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng tuy đã giảm qua từng năm nhưng đến nay vẫn còn cao, khoảng 18% số trẻ26.

Văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc tại Đắk Lắk có sự phai nhạt do tác động của lối sống mới, của kinh tế thị trường. Nhà dài là biểu tượng, niềm tự hào của người Êđê số lượng ngày càng ít, và đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ27. Một số lễ hội truyền thống của đồng bào DTTS chưa được duy trì thường xuyên, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc chưa đạt kết quả cao. Mức hưởng thụ văn hóa còn thấp, tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan chưa được bãi bỏ hoàn toàn, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức còn thấp so với mặt bằng chung.

Mặc dù đã có chuyển biến tích cực song tỷ lệ cán bộ, công chức là người DTTS chưa đạt so với quy định, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS mới chiếm tỷ lệ 13,2%; trong đó khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội (cấp tỉnh, huyện) chiếm 15,5%, khối nhà nước chiếm 11,2%, khối sự nghiệp chiếm 13,3%28. Hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở một số nơi chưa thật sự vững mạnh, thiếu sâu sát nhân dân, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nên một bộ phận người DTTS chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự kết nối, liên lạc giữa chính quyền với nhân dân chưa tốt ở một số thôn, bản vùng xa có đông đồng bào DTTS do đó, thông tin về chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vẫn bị gián đoạn, thậm chí bị xuyên tạc29.

Đắk Lắk là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, quốc phòng, an ninh của cả nước. Trong giai đoạn 2003-2024, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển đúng hướng, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào vùng DTTS được nâng cao. Việc thực hiện tốt chính sách dân tộc góp phần xây dựng và củng cố ngày càng vững chắc hệ thống chính trị cơ sở vùng DTTS, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc giữa nhân dân các dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh.

 

Ngày gửi: 12-8-2024; ngày thẩm định: 28-9-2024; ngày duyệt đăng: 30-9-2024

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2016, T. 62, tr. 48

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. 1, tr. 50

3. https://luatvietnam.vn/tu-phap/hien-phap-18-2013-l-ctn-quoc-hoi-83320-d1.html,  ngày truy cập: 28-9-2024

4. Quyết định số 87/2009/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể tỉnh Đắk Lắk thời kỳ đến 2020 của Thủ tướng Chính phủ”, https://chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=88196, ngày truy cập: 28-9-2024

5. Quyết định số 936/QĐ-TTg ngày 18-7-2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây guyên đến năm 2020”, https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=162371, ngày truy cập: 28-9-2024

6. Quyết định số 286/QĐ-TTg, ngày 9-3-2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, ngày truy cập: 28-9-2024

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ủy Đắk Lắk: Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 17-11-2004 về phát triển kinh tế - xã hội buôn, thôn đồng bào DTTS đến năm 2010”, lưu Văn phòng Tỉnht ủy Đắk Lắk

8. Đảng bộ tỉnh Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010, Đắk Lắk, 2005, tr. 44

9. Đảng bộ tỉnh Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010, Đắk Lắk, 2010, tr. 37

10. https://bandantoc.daklak.gov.vn, ngày truy cập: 28-9- 2024

11. Nghị quyết số 18/NQ-HĐND ngày 10-12-2010 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Đắk Lắk về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2010-2015”, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

12. Nghị quyết số 137/2014/NQ-HĐND, ngày 13-12-2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk về rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk.

13. Nghị quyết số 186/NQ-HĐND ngày 7-1-2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tỉnh Đắk Lắk 5 năm giai đoạn 2016-2020”, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

14, 18, 20, 22, 23, 26. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk: “Báo cáo kết quả công tác dân tộc 6 tháng đầu năm 2024”, tr. 5, 11, 22, 23, 17, 24, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

15. Phạm Hảo: Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb CTQG, H, 2007, tr. 64

16. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk: “Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững từ năm 2011 đến năm 2020”, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

17. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Báo cáo kết quả thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/11/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc từ năm 2016 đến nay, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

19, 24, 25. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk: Niên giám thống kê tỉnh Đắk Lắk 2020, Nxb Thống kê, H, 2021, tr. 479, 15, 521

21. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Báo cáo thực hiện công tác dân tộc năm 2022, phương hướng nhiệm vụ năm 2023”, lưu Văn phòng UBND tỉnh Đắk Lắk

27. “Nhà sàn dài truyền thống Êđê tại Đắk Lắk đang mất dần”, https://tuoitre.vn/nha-san-dai-truyen-thong-ede-tai-dak-lak-dang-mat-dan, ngày truy cập 12-6-2024

28. “Đắk Lắk xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới: https://dbnd.daklak.gov.vn

29. Vấn đề này đã xảy ra trong vụ bạo loạn ở xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, ngày 11-6-2023.