Tóm tắt: Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, những chiến sĩ cộng sản, chiến sĩ cách mạng, trong mọi hoàn cảnh luôn tranh thủ thời gian để học tập, nâng cao trình độ. Lúc sa cơ, rơi vào tay giặc, người tù chính trị vẫn thực hiện phương châm “Biến khám đường thành học đường”, học để trở thành người có văn hóa, để trở về phục vụ cho cách mạng tốt hơn. Các thế hệ tù nhân trong các nhà tù thực dân như Khám Lớn-Sài Gòn, Nhà tù Côn Đảo... tổ chức nhiều lớp học văn hóa, lý luận chính trị, trong đó tiêu biểu là xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Hoạt động xóa mù chữ khởi xướng ở Khám Lớn-Sài Gòn, nhưng thành công tiêu biểu là ở Nhà tù Côn Đảo, vì Khám Lớn-Sài Gòn chỉ là nơi tạm giam, tù nhân thường xuyên bị xáo trộn, đày ra Nhà tù Côn Đảo sau khi ra tòa, bị kết án. Ở trong nhà tù đế quốc nhưng 100% tù nhân được công nhận xóa mù chữ; đại đa số theo học phổ cập tiểu học, đó là thành tích rất đáng trân trọng.
Từ khóa: Bình dân học vụ; phổ cập tiểu học; tù chính trị; Khám Lớn-Sài Gòn; Nhà tù Côn Đảo
1. Xóa mù chữ ở Khám Lớn Sài Gòn
Sau ngày giành được chính quyền, các lớp bình dân học vụ được tổ chức khắp Sài Gòn-Gia Định và nhiều địa phương Nam Bộ. Người dạy và người học đều coi học quốc ngữ là yêu nước. Dạy và học diễn ra ở khắp nơi, từ trường lớp, công sở, nhà riêng, chùa chiền, đình miếu, góc chợ, trên tàu ghe đến dưới gốc cây đa1.
Những ngày hào hùng trong không khí độc lập, tự do chỉ vỏn vẹn chưa đầy một tháng, nhân dân Sài Gòn-Gia Định và cả Nam Bộ đã phải cầm súng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại. Các lớp học tạm đóng cửa, người dạy và người học xếp bút nghiên lên đường kháng chiến. Phải đến năm 1947, khi đã hình thành các chiến khu tương đối ổn định, công tác xóa mù chữ mới được tổ chức lại trong chiến khu, vùng giải phóng. Trong khi đó, ở một trận tuyến đặc biệt, những người kháng chiến bị thực dân Pháp bắt giam đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, mở lớp xóa mù chữ trong tù, như một “chiến khu” sau song sắt giam cầm của giặc.
Khám Lớn-Sài Gòn là nơi khởi đầu phong trào xóa mù chữ trong tù. Trong hoàn cảnh không may bị giặc bắt giam cầm, những chiến sĩ cách mạng luôn ý thức vị thế người công dân của một nước Việt Nam độc lập, không chấp nhận bản án của thực dân Pháp, tiếp tục thực hiện trách nhiệm người công dân của Chính phủ Hồ Chí Minh, một trong những nhiệm vụ ấy là thực hiện phong trào xóa mù chữ mà trước đó không lâu, trước khi cầm súng kháng chiến, họ đã hăng hái tham gia. Muốn tổ chức xóa mù chữ trong tù, trước hết phải thay đổi chế độ giam giữ, giành quyền tự quản trong khám giam.
Khám Lớn-Sài Gòn khi đó được coi là “địa ngục trần gian thứ hai” với một chế độ cặp rằng (caporal: cai) tàn bạo dã man hơn thời trung cổ. “Bọn cặp rằng gồm những tên côn đồ, “anh chị” khét tiếng ở các chợ - đặc biệt là chợ Cầu Muối - và các bến xe. Chúng được bọn cai ngục Pháp dùng làm cai tù giữ trật tự trong xan (salle: phòng). Bọn này... cai trị bằng luật rừng, chúng sống phè phỡn trên những giỏ thăm nuôi, quần áo, tiền bạc của anh chị em tù nhân chính trị. Ai hó hé thì chúng đánh ngay để dằn mặt. Ai dám chống đối, chúng bắt ăn cơm trộn mảnh chai, kể cả tóc và cứt. Ai cứng đầu hơn nữa, chúng lên án (tử hình) rồi siết cổ ban đêm”2.
Tù chính trị không chấp nhận tình trạng đó. Sau khi bàn bạc kế hoạch hành động, ngày 12-3-1946, tù chính trị tất cả các phòng nhất loạt nổi dậy, vừa chống lại bọn cặp rằng, vừa la hét, đập cửa song sắt. Ban quản lý Khám Lớn xuống xem chuyện gì xảy ra. Anh Võ Huy Xứng thay mặt tù chính trị yêu cầu nhốt riêng tù chính trị và tù thường phạm. Trước thái độ kiên quyết của tù chính trị, Ban quản lý đồng ý. Chế độ cặp rằng cáo chung. Ngày 12-3-1946 được xem là “ngày cách mạng của Khám Lớn”3.
Ba tuần lễ sau, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát4 bị bắt rồi bị tạm giam ở Khám Lớn chờ ngày ra tòa. Huỳnh Tấn Phát cùng với anh em tù chính trị thành lập Liên đoàn tù nhân Khám Lớn. Huỳnh Tấn Phát được bầu làm Tổng đại diện. Chức phó Tổng đại diện được trao cho Tư Ba Đào, một tay “anh chị” có uy tín với đám thường phạm. Lần lượt các phòng bầu Ban đại diện của từng phòng. Từ đây, người tù (tù chính trị cũng như tù thường phạm) tự quản lý mọi việc. Sau khi thu thập ý kiến của mọi người, Huỳnh Tấn Phát soạn thảo Bản điều lệ của Liên đoàn tù nhân Khám Lớn, lập ra các ban: an ninh trật tự, thông tin tuyên truyền, y tế vệ sinh, thể dục thể thao, học tập... Ban Học tập của Liên đoàn đã tổ chức nhiều lớp xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, bồi dưỡng kiến thức chính trị và quân sự, trong khi các ban khác thực hiện những cuộc phát thanh miệng để thông báo tin tức, những đêm ca hát, diễn kịch tự biên tự diễn, những buổi đá cầu, bóng rổ...5.
Theo sự chỉ đạo của Liên đoàn tù nhân, Ban Học tập tổ chức cho tù nhân đăng ký tham gia các lớp xóa mù chữ, bố trí giáo viên và trật tự để duy trì lớp học. Ban Học tập sắp xếp người học theo từng lớp cho phù hợp trình độ, đối với những người đã theo học các lớp xóa mù chữ trước khi bị bắt và số người mới học lần đầu (trong đó có không ít người là tù thường phạm). Tuy vậy, các lớp học thường bị xáo trộn, do người dạy và người học sau khi bị kết án, bị đày ra Côn Đảo. Khám Lớn-Sài Gòn chỉ là nơi tạm giam những người chờ kết án, được chuyển từ bót Catina (Sở Mật thám) qua. Những người bị đày ra Côn Đảo trở thành nòng cốt, xung kích trong phong trào truyền bá quốc ngữ ở nhà tù được mệnh danh là “địa ngục trần gian” số 1.
2. Xóa mù chữ ở Nhà tù Côn Đảo
Từ tháng 5-1946, thực dân Pháp bắt đầu đày tù nhân từ Khám Lớn-Sài Gòn ra Côn Đảo. Tính đến ngày 31-12-1946, Nhà tù Côn Đảo có 784 tù nhân6. Các “chiến sỹ diệt dốt” từ Khám Lớn-Sài Gòn trở thành đội ngũ tiên phong xây dựng tổ chức Liên đoàn tù nhân và mở lớp xoá mù chữ tại Nhà tù Côn Đảo. Từ năm 1948, tù nhân Côn Đảo đã hình thành Ban Chấp hành tù nhân ở các khám, cử ra Ban trật tự, Ban Xã hội, Ban Bình dân học vụ và đại diện khám để điều hành mọi hoạt động tự quản trong khám, bảo vệ quyền lợi của tù nhân, đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc. Ban Chấp hành tù nhân ở mỗi khám đều có một ủy viên phụ trách Ban Bình dân học vụ để tổ chức và chỉ đạo phong trào xoá mù chữ trong tù7.
Nhờ có tổ chức, phong trào bình dân học vụ phát triển sôi nổi ở Côn Đảo trong những năm 1947-1948. Ban Chấp hành tù nhân ở mỗi khám đều có một ủy viên phụ trách bình dân học vụ để tổ chức và chỉ đạo phong trào. Người học phần nhiều là tù thường phạm hoặc những người xuất thân là nông dân, dân nghèo thành thị, phu phen thất học..., những người mới tham gia kháng chiến.
Các anh Trần Nhật Quang ở Nhà Thương, Phạm Gia, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Đống ở Khám 1; Anh Nguyễn Văn Mẹo ở Khám 3; Trần Văn Sử, Nguyễn Văn Giỏi ở Sở rẫy An Hải; Nguyễn Sáng, Lưu Văn Lê ở Sở Chỉ Tồn... từng tham gia xoá mù chữ tại Khám Lớn-Sài Gòn đã tích cực đóng góp cho phong trào xoá nạn mù chữ tại Nhà tù Côn Đảo. Anh Trần Nhật Quang từng bị địch tra tấn đến mù một con mắt vẫn cặm cụi thức khuya dưới ngọn đèn tù mù chép những bài tập đọc, chính tả cho anh em.
Tùy điều kiện khổ sai ở mỗi sở mà anh em bố trí thời gian học cho thích hợp. Các sở An Hải, Sở Củi, Lò Vôi tổ chức học buổi trưa; Nhà bếp, Chỉ Tồn, Bản Chế học buổi tối. Tù tử hình phải còng chân thì bố trí thầy ngồi giữa, trò ngồi 2 bên. Khi muốn đổi thầy hay đổi trò thì phải chờ đến phiên đổi còng. Anh Gác, công nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ nhờ được anh Lê Phú hướng dẫn tận tình trong mấy tháng ở Khám tử hình đã đọc thông, viết thạo và làm được cả 4 phép tính thông thường.
Gác ngục Saden thấy tù nhân khám tử hình học văn hóa giễu cợt: Các anh sắp chết rồi còn học làm gì? Người tử tù Nguyễn Đình Chính trả lời: Nếu không chết thì sẽ thành người có ích. Còn nếu chết thì chúng tôi cũng phải chết một cách có văn hoá!8.
Năm 1949, Liên đoàn tù nhân Côn Đảo được thành lập. Ban chấp hành gồm: Ba Đào là Chủ tịch; Trịnh Xuân Hà là Phó Chủ tịch kiêm Tổng đại diện; Trương Anh Tuấn là ủy viên phụ trách tuyên truyền; Lê Ngọc Hương-Ủy viên phụ trách huấn học; Nguyễn Tiếp-Ủy viên phụ trách công tác xã hội; Nguyễn Ngọc Sớm-Ủy viên phụ trách giao thông liên lạc... Từ khi có Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, phong trào Bình dân học vụ phát triển mạnh theo khẩu hiệu: “Biến khám đường thành học đường”. Ban Huấn học tích cực vận động mọi người học tập theo phương châm “Không để một ai ngồi không mà không học, không đọc”.
Theo chỉ đạo của Liên đoàn tù nhân, mỗi người đều phải đăng ký trình độ văn hóa và được bố trí vào các lớp phù hợp với trình độ. Theo phương pháp i-tờ do Hội truyền bá quốc ngữ đề xướng, công tác xoá nạn mù chữ ở Côn Đảo đã đem lại kết quả rất khả quan. Trong khoảng thời gian 3 tháng, người chưa biết chữ đã có thể đọc được, viết được. Cuối năm 1949, Liên đoàn tù nhân đã căn bản hoàn thành việc xóa mù chữ, chỉ còn một số trường hợp đặc biệt và tiếp tục xóa mù chữ cho các đối tượng mới bị đày ra Côn Đảo.
Khám 6 có ông già Trị là tù thường phạm mù chữ. Khi còn làm khổ sai ở các sở ngoài, ông tìm cách vượt ngục nên chẳng học được chữ nào. Vượt ngục không thành, bị đưa vào cấm cố, thấy mọi người say mê học ngày, học đêm, ông mới thèm khát được biết đọc, biết viết, có thể đọc được thư của gia đình như mọi người. Ông cặm cụi mài từng mẩu san hô thành viên phấn nhỏ, nắn nót viết từng nét chữ theo sự hướng dẫn của những người tù trẻ. Ba tháng sau, ông viết được thư về nhà. Khi nhận được thư hồi âm, ông rưng rưng đọc nhẩm từng chữ, xúc động như cảm nhận một điều kỳ diệu. Ông cười mà nước mắt dàn dụa, nói với anh em tù chính trị chỉ trạc tuổi con mình: “Tụi bây khá quá. Tao không ngờ ở với tụi bây lại sáng mắt ra”9. Khám 6 còn có ông già Kim mù chữ, vốn là một người nghèo khổ, bị xã hội thực dân ngược đãi đến bần cùng, rồi trở thành tướng cướp. Ông lầm lì ít khi nói chuyện, chỉ nằm hút thuốc một mình, rất thờ ơ khi anh em vận động học chữ. Lý lẽ của ông là mấy chục năm nay không biết chữ mà vẫn sống được thôi. Cánh tù trẻ cứ theo ông thuyết phục hằng ngày, nể lời, ông tham gia học chữ nhưng thiếu kiên trì, thích thì học, chán thì bỏ, học trước quên sau. Thầy nào gặp ông cũng nản, không ai dạy được ông quá một tuần. Ban Huấn học phải nhiều lần động viên, khuyến khích, phân công những người có kinh nghiệm phụ trách xóa mù chữ cho riêng ông. Vương Tự Kiên (bí danh “Lục Xịt”) xung phong nhận dạy ông theo phương pháp riêng, khi nào ông thích học thì dạy, lúc ông chán thì thôi ngay. Hằng ngày anh gần gũi, vừa năn nỉ vừa khích lệ... Già Kim cảm mến Vương Tự Kiên, theo học được một thời gian dài, biết đọc, biết viết, mặc dù chữ rất xấu. Theo báo cáo của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, ông già Tiếu là người cuối cùng được thanh toán nạn mù chữ trong khu biệt lập Banh II vào cuối năm 1952. Ông bị mật thám Pháp đánh thành tật bàn tay phải. Kẹp mẩu gạch vào mấy ngón tay tàn tật viết không thành, ông chuyển sang tập viết bằng tay trái. Kiên trì và nhẫn nại trong một thời gian dài, mãi đến cuối năm 1952, ông mới viết được bức thư đầu tiên cho vợ. Dòng đầu tiên ông viết: “Má bầy nhỏ à, nhờ cách mạng tôi đã biết đọc, biết viết thơ này gởi cho má nó”10.
Cùng với việc học văn hóa, xóa mù chữ, tù nhân kháng chiến còn phát động phong trào “nói đúng tiếng Việt”. Người ở nhiều địa phương tụ hội về, mang theo phong tục, phương ngữ khác nhau. Khu biệt lập Banh II phát động phong trào nói đúng tiếng Việt (quốc ngữ). Ai nói sai phải đứng nghiêm, sửa lại cho đúng theo hướng dẫn của người phát hiện, đồng thời phải đeo vào cổ một “thẻ đời sống mới” để làm dấu mỗi lần nói sai. Muốn bớt thẻ thì phải phát âm cho đúng, và phải bắt được người nói sai thì mới được chuyển thẻ. Tối về kiểm số thẻ mà phê bình hay khen ngợi. Cuộc vận động nói đúng tiếng Việt ở khu biệt lập đã giúp cho nhiều người có được độ chuẩn trong ngôn ngữ khi nói và viết, nâng cao ý thức về sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng Việt.
3. Phổ cập tiểu học trong tù
Sau khi được công nhận hoàn thành chương trình xóa mù chữ, các học viên được chuyển qua học chương trình phổ cập tiểu học, phân theo từng lớp phù hợp với trình độ học viên, có người phụ trách giảng dạy, có người kèm cặp, phụ đạo. Vào giờ học, trật tự viên chia cho mỗi người một ô nhỏ trên sàn khám. Mỗi học viên giấu sẵn những mẩu san hô non, mẩu gạch mài nhọn làm phấn để viết chính tả, giải toán, làm văn, cặm cụi, từ đêm này qua đêm khác, ai sáng dạ thì từ 3 đến 5 tháng có thể học xong chương trình một lớp.
Sôi nổi nhất là những kỳ sát hạch, thi lên lớp hoặc chuyển cấp. Học viên làm bài thi ngay trên ô bảng của mình. Lưng trần bóng nhẫy mồ hôi, cặm cụi cho đến hết giờ khi trật tự viên ra hiệu lệnh hết giờ bằng chuông miệng “boong... boong!” thì tất cả ngưng làm bài, hồi hộp chờ thầy đến chấm, cũng có trường hợp so bì, “ghen tỵ”, tự ái hoặc nằn nì xin thêm điểm như trẻ nhỏ. Người đạt điểm cao trong mỗi kỳ thi được nhận phần thưởng là bằng khen được Ban Huấn học “cấp phát bằng miệng” trong chương trình phát thanh buổi tối trong khám.
Ở khu biệt lập thiếu thốn nhiều thứ, từ miếng cơm, ngọn rau, hạt muối, viên thuốc cho đến ánh sáng, khí trời; nhưng bù lại, có thời gian, có sách, có thầy nên có điều kiện học tập nâng cao. Mọi người tự giác học tập, theo nhu cầu, khát vọng và sở trường của mình. Nhóm các anh Tỵ, Đô, Tín, Mè, Túc, Lý, Mười Nhỏ... phấn đấu đạt mức phổ cập bậc tiểu học. Các anh Vũ Ngọc Chung, Trần Khắc Du, Vương Tự Kiên, Nguyễn Văn Hai... theo học toàn diện lên bậc tú tài. Anh Phạm Văn Bửu say mê học toán. Sách học nhờ gia đình mua ở Sài Gòn gửi vào, theo chương trình tú tài Pháp. Thầy dạy là những người đã tốt nghiệp tú tài, cử nhân: Lê Trung Khá dạy toán, Trần Nhật Quang, Vũ Đắc Bằng dạy văn, Trần Bảo Trung dạy tiếng Bắc Kinh, Trịnh Văn Hà dạy kỹ thuật nông nghiệp...
Lớp toán tự học theo sách giáo khoa của George Eve, Matignon, Lamireaud, Bontaire, Wood Beiley, bài tập tự làm là các đề thi tú tài ở các thành phố Lyon, Marseille, Toulouse, Alger, Bordeaux (Pháp). Học hết sách, làm hết bài tập rồi tổ chức thi và chấm cho nhau, tự phong bằng tú tài cho những người đỗ đạt. Anh Nguyễn Trí Tuệ, trật tự viên làm nhiệm vụ giữ trật tự trong các buổi thi. Anh chế tạo một chiếc đồng hồ bằng lon vải hộp, đục lỗ, khắc vạch, đổ nước đầy lúc ra đề thi, rồi theo vạch nước rút mà tính thời gian thu bài. Thầy dạy Toán Lê Trung Khá chấm bài rồi báo cáo Ban Huấn học để công nhận kết quả tốt nghiệp11.
Lớp kỹ thuật canh nông do kỹ sư Trịnh Văn Hà phụ trách học rất sôi nổi. Học viên ngồi vây quanh, say sưa nghe thầy trình bày từng chuyên đề về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cách tổ chức một nông trang tập thể. Kỹ sư Lưu Văn Lê trong một thời gian ngắn ở biệt lập cũng đóng góp cho lớp học những kinh nghiệm thực tiễn của mình. Lớp học còn tổ chức thảo luận về “Chương trình khai thác Đồng Tháp Mười” với những ý tưởng cải tạo vùng đất phì nhiêu này thành một vựa lúa của Đông Nam Á. Nhiều người tự nguyện tham gia nhóm Thanh niên Đồng Tháp Mười và hẹn ước với nhau, kháng chiến thắng lợi sẽ cùng nhau trở về cải tạo Đồng Tháp Mười thành vựa lúa cho đất nước. Sau này, do sự phân công nhiệm vụ, các anh không có điều kiện thực hiện “Chương trình khai thác Đồng Tháp Mười”, nhưng những thế hệ tiếp nối đã kế thừa ý tưởng của các anh, xây dựng dự án cải tạo và khai thác Đồng Tháp Mười thành một vựa lúa trù phú của Nam Bộ.
Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng là truyền thống của các thế hệ tù chính trị, nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Thế hệ tù chính trị giai đoạn 1930-1945 đã tổ chức nhiều lớp học văn hóa, chính trị, lý luận, nâng cao trình độ cho cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng, để khi trở về phục vụ tốt hơn cho cách mạng.
Thế hệ tù nhân thời kháng chiến chống thực dân Pháp đầu tiên bị bắt giam tại Khám Lớn-Sài Gòn rồi đày ra Côn Đảo phần lớn là công nhân, nông dân, lao động đô thị vốn thất học, một số là trí thức mới giác ngộ những ngày tiền khởi nghĩa, rất ít người là đảng viên, phần lớn chưa trải qua các lớp huấn luyện chính trị, lý luận12. Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đã cho họ ý thức giác ngộ về tư thế công dân một nước Việt Nam độc lập, cầm súng kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Hồ Chí Minh. Ngay cả khi bị giặc bắt, giam cầm, đày ải, họ vẫn phủ nhận bản án phi pháp của bọn thực dân, khẳng định chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đấu tranh với bọn thống trị, giành quyền tự quản trong khám giam, thực hiện chính sách của Chính phủ Hồ Chí Minh ngay trong nhà tù, tiêu biểu là thực hiện phong trào bình dân học vụ, xóa mù chữ và phổ cập tiểu học trong tù.
Lớp tù nhân thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) cũng tổ chức nhiều lớp học lý luận chính trị, nâng cao trình độ giác ngộ, song, thành tích xóa mù chữ và phổ cập cấp 1 là tiêu biểu hơn cả. Đến Hiệp định đình chiến Giơnevơ (1954), toàn bộ 100% tù nhân đều được công nhận xóa mù chữ; đại đa số theo học phổ cập cấp I. Nhiều người tự học đến trình độ tương đương tú tài trong tù, khi trở về đã thi thẳng vào đại học, phục vụ trong những ngành kinh tế-xã hội và khoa học kỹ thuật13.
Trong mọi hoàn cảnh, phong trào bình dân học vụ, phổ cập tiểu học trong nhà tù thực dân vẫn được tiến hành, rất nghiêm túc, bài bản, chất lượng và hiệu quả. Điều này cho thấy ý chí, nỗ lực, sức sáng tạo trong tổ chức thực hiện, mà hơn cả là khát vọng được học tập, được cống hiến cho Đảng, cho dân tộc, được kiến thiết đất nước của những người tù chính trị trong nhà tù thực dân. Điều này rất có ý nghĩa đối với công tác lãnh đạo sự nghiệp giáo dục hiện nay.
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 5/2020
* Bài viết được thực hiện trong chương trình đề tài “Công tác chính trị, tư tưởng và đời sống văn hóa, xã hội trong chiến khu cách mạng Nam Bộ (1945-1954)”, mã số C2018-18b-05
1. Quốc Việt: “Xóa mù chữ ở Sài Gòn-Gia Định”, Báo Tuổi trẻ, ngày 27-8-2015
2, 5. Phan Trọng Bình và Hoàng Xuân Bình: “Đấu tranh trong tù”, Làm đẹp cuộc đời”, Nxb CTQG, H, 1994, tr. 154, 155
3. Cuộc cách mạng của Khám Lớn sau được gọi với tên phổ biến là “Cách mạng Khám đường”, do Vũ Huy Xứng và Phan Trọng Bình lãnh đạo
4. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989) được giới thanh niên trí thức biết tiếng từ các hoạt động trong giới sinh viên khi đang theo học kiến trúc ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội những năm 1936-1938; Chủ nhiệm tuần báo Thanh Niên (1944)-tờ báo được sử dụng để tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước, cổ động phát triển Hội Truyền bá Quốc ngữ; bị bắt ngày 1-4-1946. Trở thành Tổng đại diện của tù nhân, Huỳnh Tấn Phát tập hợp số thanh niên trí thức đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ ở Sài Gòn-Gia Định tổ chức hoạt động xóa mù chữ tại Khám Lớn-Sài Gòn. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát còn là khai sáng và làm chủ bút Tờ báo Phá Ngục, ra đời ở Khám Lớn-Sài Gòn từ năm 1946. Báo Phá Ngục là tiếng nói của Liên đoàn Tù nhân Khám Lớn-Sài Gòn, cổ vũ tinh thần chiến đấu của anh em tù chính trị, tố cáo tội ác của nhà tù và thực dân Pháp, tuyên truyền chủ trương của Chính phủ Hồ Chí Minh. Báo Phá Ngục cũng dành chuyên mục cổ vũ cho phong trào xóa mù chữ trong tù. Báo Phá Ngục được viết tay, in bột nếp, khoảng 1 đến 2 tháng ra báo một lần, không cố định. Mỗi số báo in chừng 40 bản, chuyền tay nhau đọc. Từ năm 1946 đến năm 1954, báo ra được khoảng 50 số. Tờ Phá Ngục Xuân Giáp Ngọ 1954 hiện được lưu tại Bảo tàng Bến Tre, gồm 36 trang, khổ 20cm x 26 cm, với gần 50 bài, các thể loại chính luận, tự sự, văn, thơ, tranh vẽ táo quân, hoa mai, hoa đào...
6. Báo cáo số 774P ngày 8-2-1947. Hồ sơ lưu tại Phòng Lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu
7. Nhiều tác giả: Tù chính trị câu lưu Côn Đảo (1957-1975)-từ thực tiễn nhìn lại, Nxb QĐND, H, 2017, tr. 640
8, 9, 10,11. Nhà tù Côn Đảo 1862-1975, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr. 248, 334, 335, 334
12. Riêng Huỳnh Tấn Phát được tham gia lớp huấn luyện chính trị do Bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu mở cho số thanh niên trí thức tiến bộ ở Sài Gòn, đầu năm 1945
13. Thầy dạy toán Lê Trung Khá trở thành Tiến sĩ Khảo cổ học; Vương Tự Kiên trở thành bác sỹ; Trần Khắc Du là kỹ sư nông nghiệp; Nguyễn Trí Tuệ, Trần Y trở thành những kỹ sư giao thông; Nguyễn Ngọc Sớm là kỹ sư địa chất... Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, Nguyễn Ngọc Sớm được phân công nhiệm vụ vào triển khai công tác thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa phía Nam, góp phần vào đặt nền móng cho ngành công nghiệp dầu khí non trẻ và đầy triển vọng của đất nước. Sau đó, ông được bổ nhiệm quyền Giám đốc Công ty Dầu khí 2, khởi đầu sự nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam, Phó Tổng Giám đốc Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro, Phó Chủ tịch đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo.