Tóm tắt: Công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế liên quan đến việc sáng tạo, sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Công nghiệp văn hóa không chỉ là “ngành công nghiệp không khói”, đóng góp cho phát triển kinh tế, góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh, vị thế quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những đột phá chiến lược. Bài viết góp phần làm rõ chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển công nghiệp văn hóa và một số kết quả đạt được.
Từ khoá: Công nghiệp văn hóa; chủ trương; kết quả
1. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển công nghiệp văn hóa
Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Trong hơn 10 năm đầu đổi mới, Đảng đã ban hành 2 nghị quyết quan trọng: Nghị quyết HNTƯ 4 khóa VII, ngày 14-01-1993 “về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, và Nghị quyết HNTƯ 5, khóa VIII ngày 16-7-1998 “về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong đó, Nghị quyết HNTƯ 5 khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”1. Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, Nghị quyết xác định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa…; văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”2. Mặc dù chưa đề cập đến thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” nhưng Nghị quyết HNTƯ 5 khóa VIII đã nêu lên những nội dung quan trọng và những giải pháp có ý nghĩa tiền đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa, nhấn mạnh tiềm năng kinh tế trong phát triển văn hóa, gắn kinh tế với văn hóa; xây dựng cơ chế kinh doanh, dịch vụ văn hóa theo hướng kinh tế thị trường; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động văn hóa; đẩy mạnh sự sáng tạo, tăng cơ hội tiếp cận của người dân với các sản phẩm văn hóa.
Đến HNTƯ 10 khóa IX (2004), Đảng tiếp tục nhấn mạnh thực hiện gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội hóa các sản phẩm văn hóa và sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa trong bối cảnh chuyển đổi tính chất, cơ cấu của nền kinh tế; đồng thời khẳng định các hoạt động văn hóa không chỉ mang tính chất sự nghiệp mà còn mang tính kinh doanh; thị trường văn hóa bước đầu được thừa nhận với những sản phẩm văn hóa được lưu thông theo cơ chế thị trường.
Tại Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2008 của HNTƯ 9, khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, lần đầu tiên Đảng xác định tập trung phát triển công nghiệp văn hóa. Nghị quyết chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”3; “Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới”4. Như vậy, Nghị quyết số 33-NQ/TW đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa khi khẳng định sự cần thiết phải xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
Quan điểm về phát triển công nghiệp văn hóa được thể hiện ngày càng rõ nét và nhất quán trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là từ Đại hội XI (2011) của Đảng đến Đại hội XIII (2021) của Đảng. Sự xuất hiện và nhấn mạnh khái niệm “công nghiệp văn hóa” đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lãnh đạo của Đảng.
Đại hội XI (2011) của Đảng đã xác định văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần mà còn có thể trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp vào tăng trưởng GDP và tạo ra việc làm. Đại hội XII (2016) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển công nghiệp văn hóa: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa”5. Tiếp đó, ngày 4-6-2020, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, với mục tiêu, quan điểm tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó nêu rõ: “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tạo nhận thức sâu sắc của toàn xã hội về vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa…. tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư để phát triển công nghiệp văn hóa. Có giải pháp đồng bộ, tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích hoạt động sáng tạo, thu hút đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tạo thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và các ngành công nghiệp văn hóa. Nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường”6.
Đại hội XIII (2021) của Đảng chính thức coi công nghiệp văn hóa là một trụ cột phát triển kinh tế, ngang hàng với các ngành công nghiệp truyền thống. Đại hội nhấn mạnh: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”7. Như vậy, công nghiệp văn hóa tiếp tục được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để khai thác, phát huy hiệu quả giá trị văn hóa và sức mạnh của con người Việt Nam.
Điểm mới và cụ thể hóa trong nội dung Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công nghiệp văn hóa là nhấn mạnh sự cần thiết phải có chiến lược, ưu tiên các lĩnh vực có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh, thay vì dàn trải, phải gắn phát triển công nghiệp văn hóa với việc nâng cao vị thế, hình ảnh quốc gia, thể hiện sự thấu hiểu về vai trò của văn hóa trong quan hệ quốc tế và hội nhập; đồng thời khẳng định sự cần thiết phải ứng dụng công nghệ hiện đại, đặc biệt là các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để đổi mới sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó là sự kết hợp nội lực và ngoại lực nhằm mục đích vừa khai thác giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa và công nghệ tiên tiến của thế giới vào phát triển công nghiệp văn hóa của đất nước.
Thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17-11-2022, HNTƯ 6 khoá XIII “về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, khẳng định: “Phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả các ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa gắn với phát triển du lịch”8.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó có nhiều luật quan trọng, như: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo,… Ngày 27-11-2024, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 162/2024/QH15 phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035”, khẳng định: “Huy động nguồn lực, tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng, hiệu quả cho phát triển văn hóa, đóng góp trực tiếp vào phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân9, mục tiêu đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP; 100% đơn vị văn hóa, nghệ thuật ứng dụng công nghệ số và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; mỗi năm có ít nhất 5 sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế có Việt Nam tham gia chính thức. Đến năm 2035, mục tiêu nâng tỷ lệ đóng góp lên 8% GDP và có ít nhất 6 sự kiện quốc tế lớn hàng năm có sự góp mặt của Việt Nam10.
Ngày 8-9-2016, Chính phủ ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, gồm 12 ngành công nghiệp văn hóa11. Chiến lược chỉ rõ: “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa;… Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường;… Phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế”12. Đây là cơ sở quan trọng để các cấp, các ngành, các nhà hoạt động văn hóa tổ chức triển khai thực hiện phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
Ngày 29-8-2024, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 30/CT-TTg “về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”. Chỉ thị nêu rõ: “Việt Nam có tiềm năng, lợi thế lớn về nhiều mặt để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, góp phần tạo động lực mới cho sự phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại”13. Chỉ thị nhấn mạnh: “Để thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, cần chú trọng, đẩy nhanh quá trình ứng dụng, khai thác những thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật cùng kỹ năng kinh doanh, năng lực sáng tạo, phát huy nguồn vốn văn hóa và quyền sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mang giá trị văn hóa và kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân, góp phần phát triển bền vững đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa phải bảo đảm khai thác tối đa, hiệu quả tiềm năng, lợi thế; đa dạng, liên kết đa ngành, lĩnh vực…..; từng bước tạo dựng thương hiệu quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, luật pháp trong nước và quốc tế”14.
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vai trò của công nghiệp văn hóa, từ chỗ là một lĩnh vực hỗ trợ thành một động lực phát triển kinh tế độc lập, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao. Các sản phẩm văn hóa được nhìn nhận như một loại hàng hóa đặc biệt, có thể lưu thông và cạnh tranh trong môi trường kinh tế thị trường. Nhiều chính sách cụ thể đã được ban hành nhằm tạo điều kiện cho công nghiệp văn hóa phát triển thành ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao. Cách tiếp cận này thể hiện rõ xu hướng tích hợp giữa phát triển văn hóa và kinh tế, hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức gắn với nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, góp phần phá vỡ những quan niệm lỗi thời coi văn hóa chỉ là lĩnh vực bao cấp, phi kinh tế, từ đó khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong đội ngũ văn nghệ sĩ, nhà quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng tham gia phát triển công nghiệp văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập.
2. Một số kết quả
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của các nhà hoạt động văn hóa, của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đã đạt được những kết quả quan trọng ban đầu:
Về tổ chức, Hiệp hội Phát triển Công nghiệp văn hóa Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 541/QĐ-BNV ngày 30-5-2025 của Bộ Nội vụ với sứ mệnh kết nối cơ quan quản lý, doanh nghiệp, nghệ sĩ và cộng đồng sáng tạo nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hiệp hội là nơi để tập hợp những người làm văn hóa, doanh nghiệp, nghệ sĩ và những ai quan tâm đến việc lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam15.
Tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh, năm 2009 là 1,72%, năm 2015 là 3,5%, đến năm 2019 là 5%16. Cũng trong năm 2019, cả nước có 115 đơn vị văn hóa nghệ thuật công lập, trong đó, 12 đơn vị ở trung ương và 103 đơn vị ở địa phương; 108 cơ sở đào tạo tham gia đào tạo văn hóa - nghệ thuật, với khoảng hơn 97.100 doanh nghiệp văn hóa. Không gian văn hóa phát triển, chỉ tính không gian văn hóa sáng tạo ngoài công lập, năm 2017 có 40 không gian, năm 2021, tăng lên 195 không gian17.
Đặc biệt, Việt Nam có 9 di sản thế giới được UNESCO công nhận18, trong đó Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới ngày 12-7-2025, tại Paris (Pháp).
Hệ thống rạp chiếu phim được mở rộng khắp các tình thành trong cả nước, đặc biệt là các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu phòng vé năm 2019 đạt gần 4.100 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2014. Nhiều chương trình ca nhạc, sân khấu, liên hoan quốc tế được tổ chức, thu hút đông khán giả.
Với sự phát triển đó, Việt Nam đã hình thành các trung tâm công nghiệp văn hóa trọng điểm, tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh; định hình, mở rộng và phát triển mạng lưới các thành phố sáng tạo trên cả nước. Hiện nay, Việt Nam có 3 thành phố trong Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, gồm: Hà Nội - thành phố sáng tạo trong lĩnh vực “thiết kế”; Đà Lạt - thành phố sáng tạo trong lĩnh vực “âm nhạc”; Hội An - thành phố sáng tạo trong lĩnh vực “thủ công và nghệ thuật dân gian”19.
Qua những hoạt động trên, đóng góp của công nghiệp văn hóa vào nền kinh tế ngày càng lớn, năm 2010, đạt 2,44% GDP, năm 2015: 3,5%, năm 2018, là 3,61%, tương đương khoảng 8.081 tỷ USD20. Từ năm 2018 đến năm 2022, tổng giá trị của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đạt khoảng 1,059 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 44 tỷ USD21. Với kết quả đó, giá trị xuất xuất nhập khẩu giá trị các sản phầm văn hóa ngày càng tăng, Trong giai đoạn 2003-2015, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa sáng tạo hàng năm đạt 17,9%22. Về xuất khẩu: năm 2015, đạt: 837.014,65 triệu USD; năm 2019 tăng lên hơn 2,4 tỷ USD23.
Chỉ tính riêng ngành du lịch, lượng khách quốc tế đến Việt Nam liên tục tăng. Năm 2019, Việt Nam đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế, trong đó hơn 60% tham gia các hoạt động gắn với văn hóa. Năm 2023, Việt Nam đón 12,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 3,4 lần so với năm 202224, năm 2024, con số này tăng lên 17,6 triệu lượt25. Doanh thu từ du lịch lữ hành năm 2024 đạt khoảng 62,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 202326. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đón hơn 10,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 202427. Ngành thủ công mỹ nghệ kết hợp du lịch, Việt Nam có hơn 1.800 làng nghề truyền thống được bảo tồn, nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất khẩu sang thị trường Nhật, Mỹ, EU với kim ngạch hàng tỷ USD. Đồng thời, phát triển, các làng nghề truyền thống cũng tạo không gian văn hóa du lịch thu hút khách du lịch đến tham quan. Bên cạnh đó, trò chơi điện tử và dịch vụ trực tuyến tăng mạnh. Việt Nam nằm trong top 5 thị trường game lớn nhất Đông Nam Á; các studio game Việt như VNG, Amanotes đã có sản phẩm vươn ra quốc tế.
Những kết quả trên cho thấy phát triển công nghiệp văn hóa trở thành xu hướng và có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, thu hút nguồn lực, lao động, tạo việc làm, đóng góp vào nền kinh tế chung của cả nước ngày càng nhiều, phát huy lợi thế cạnh tranh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế: các ngành công nghiệp văn hóa chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Việt Nam như: nhỏ về quy mô, yếu về tiềm lực; phát triển chưa có trọng tâm, trọng điểm; chưa tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp về tài chính; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt là nhân lực có tư duy sáng tạo trong các lĩnh vực văn hóa và cán bộ quản lý văn hóa, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa,…
Chủ trương đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Đảng là hoàn toàn đúng đắn và kịp thời, đã tạo động lực, sức mạnh nội sinh quan trọng để chuyển hóa văn hóa thành sức mạnh mềm, thúc đẩy quá trình phát triển đất nước nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Những kết quả đạt được trong công nghiệp văn hóa khẳng định vai trò là một động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng, phát triển đất nước và quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới.
Ngày nhận bài:28-7-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 25-8-2025; ngày duyệt đăng:15-9-2025
18. Vịnh Hạ Long; Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng; Hoàng thành Thăng Long; Thành nhà Hồ; Cố đô Huế; Phố cổ Hội An; Thánh địa Mỹ Sơn; Khu danh thắng Tràng An