Tóm tắt: Trải qua hơn 90 năm kể từ khi ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, công tác thông tin đối ngoại từ năm 1986 đến nay đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam đến đông đảo bạn bè trên thế giới. Bài viết làm rõ những thành tựu của công tác thông tin đối ngoại trên các mặt lí luận và thực tiễn.
Từ khóa: Thành tựu của Đảng; thông tin đối ngoại
Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác thông tin đối ngoại; tuyên truyền biển, đảo; phân giới, cắm mốc
và quản lý biên giới năm 2022; triển khai nhiệm vụ năm 2023 tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 24-12-2022.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đều đã đề ra đường lối, chủ trương và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.
Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, công tác thông tin đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng tiết tục đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt lí luận và thực tiễn như sau:
Một là, Đảng luôn nhận thức vai trò quan trọng của công tác thông tin đối ngoại và kịp thời đề ra chủ trương, đường lối thông tin đối ngoại đúng đắn, phù hợp
Thời đại ngày nay, thông tin đối ngoại trở thành một trong những công cụ quan trọng, phổ biến được sử dụng trong quan hệ quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đối ngoại của mỗi quốc gia trên thế giới. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có công tác đối ngoại. Trên cơ sở đó, công tác thông tin đổi ngoại được đổi mới, góp phần tạo môi trường quốc tế hòa bình, từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận và mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và quốc tế. Từ sau khi các nước XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Các lực lượng thù địch với CNXH và chế độ chính trị của Việt Nam không ngừng đưa ra các thông tin xuyên tạc, lừa bịp, chống phá đất nước. Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra đường lối đối ngoại rộng mở “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Về công tác thông tin đối ngoại, Đại hội chủ trương coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại. Ngày 13-6-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 11-CT/TW Về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, xác định rõ những nội dung, phương thức, đối tượng, địa bàn và cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại; lần đầu tiên Đảng sử dụng khái niệm Thông tin đối ngoại, thay cho khái niệm Tuyên truyền đối ngoại với những nội hàm mới, phù hợp và phong phú hơn. Đại hội X (2006) của Đảng nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động tuyên truyền, thông tin đối ngoại là đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về nhiệm vụ đối ngoại với mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, công tác thông tin đối ngoại tập trung tuyên truyền, làm rõ phương châm đối ngoại của Đảng là: Đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đại hội XIII của Đảng (2021) chủ trương công tác thông tin đối ngoại tiếp tục đổi mới nội dung tuyên truyền, nâng cao hiệu quả theo phương châm chính xác, kịp thời, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng.
Từ năm 1986 đến nay, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thông tin đối ngoại có những bước phát triển mạnh mẽ. Tư duy đối ngoại luôn xuất phát từ thực tiễn sôi động của thế giới và trong nước, trên cơ sở đó đưa ra chủ trương, chính sách đối ngoại phù hợp, góp phần giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
Hai là, chỉ đạo thống nhất các hoạt động thông tin đối ngoại; tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại
Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thông tin đối ngoại, các cơ quan Nhà nước đã ban hành những chính sách, pháp luật về quản lý và phát huy vai trò của thông tin đối ngoại trong thực hiện nhiệm vụ trọng yếu của đất nước: Ngày 2-12-1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa IX) thông qua Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài, quy định cơ chế quản lý và cách thức phối hợp tổ chức tại các địa bàn ở nước ngoài. Chính phủ ban hành Nghị định số 183-CP, ngày 18-11-1994, quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài, yêu cầu cơ quan hữu quan trong nước cung cấp thông tin, ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền về đất nước, con người Việt Nam, về đường lối, chính sách trong các lĩnh vực để cơ quan đại diện có điều kiện thực hiện tốt công tác thông tin, văn hóa tại các nước tiếp nhận nhằm tăng cường sự hiểu biết và quan hệ hữu nghị hợp tác với Việt Nam. Nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí truyền thông, ngày 13-9-1997, Chính phủ ra Nghị định số 98-NĐ/CP về Quy chế hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài: Nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến việc quản lý hoạt động báo chí nước ngoài. Trước yêu cầu về công tác quản lý và phối hợp các hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan nhà nước chưa được thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, ngày 26-4-2000, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Ngày 27-12-2001, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 16-QĐ/TW Về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại. Tiếp đó, ngày 13-12-2016, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 2434/QĐ-TTg, về Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, tiếp tục khẳng định báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Ngày 24-11-2021, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1976/QĐ-TTg phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển một số báo in và báo điện tử đối ngoại quốc gia giai đoạn 2022-2030. Mục tiêu nhằm phát triển báo in Vietnam News, Tạp chí in Báo ảnh Việt Nam và báo điện tử Vietnam Plus của Thông tấn xã Việt Nam thành các báo in và báo điện tử đối ngoại quốc gia, hoàn thành tốt nhiệm vụ thông tin đối ngoại theo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó, các Bộ, ban, ngành và các địa phương trong cả nước đều thực hiện thống nhất công tác thông tin đối ngoại với mục tiêu phục vụ sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, luôn chú trọng phát triển nội dung, phương thức và lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại phù hợp với điều kiện đất nước và biến đổi của tình hình thế giới
Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành chỉ đạo của Nhà nước, nội dung thông tin đối ngoại đều được xác định cho phù hợp, thích nghi với tình hình quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn đất nước. Trong những năm (1986-1995), nội dung thông tin đối ngoại tập trung giới thiệu hình ảnh Việt Nam thân thiện, tươi đẹp ra thế giới; tuyên truyền những chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kêu gọi sự đầu tư, giúp đỡ của bạn bè quốc tế đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam; lên án chính sách bao vây, cấm vận về kinh tế của các nước đối với Việt Nam. Từ năm 1996 đến năm 2000, khi đất nước thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận, quan hệ đối ngoại được mở rộng, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, công tác thông tin đối ngoại đã giúp cho các đối tác kinh tế ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ hợp tác với Việt Nam. Từ năm 2000 đến nay, thông tin đối ngoại phát triển vượt bậc với những nội dung phong phú về đất nước, con người, truyền thống văn hóa - lịch sử tốt đẹp của Việt Nam; hình ảnh đất nước Việt Nam với cơ đồ, vị thế mới luôn trở thành nội dung chủ yếu, thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận quốc tế.
Lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam ngày càng trưởng thành về số lượng và nâng cao về chất lượng: Năm 2019, Việt Nam có 58 văn phòng thường trú báo chí tại nước ngoài, gồm 4 cơ quan báo chí lớn: Đài Truyền hình Việt Nam có 10 văn phòng thường trú tại 10 nước với 36 cán bộ, phóng viên. Đài Tiếng nói Việt Nam có 12 văn phòng thường trú tại 12 nước với biên chế là 24 cán bộ, phóng viên. Báo Nhân Dân có 6 cơ quan thường trú tại 6 nước với biên chế 12 cán bộ, phóng viên. Thông tấn xã Việt Nam có 30 cơ quan thường trú tại 28 nước và vùng lãnh thổ với 77 phóng viên; có 96 cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài1. Lực lượng cán bộ thông tin đối ngoại phối hợp có 12 ban Đảng, 27 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho 01 đơn vị đầu mối về thông tin đối ngoại, giao 01 lãnh đạo cấp Vụ là cán bộ phụ trách thông tin đối ngoại; 100% các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành kế hoạch hằng năm, thành lập, kiện toàn Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại; 74,6% (47/63) các tỉnh, thành phố xây dựng và sửa đổi “Quy chế quản lý hoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn” căn cứ theo Thông tư số 22/2016/TT-BTTTT ngày 19-10-2016 của Bộ thông tin và Truyền thông “Hướng dẫn quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; 100% cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có đầu mối phối hợp liên hệ trong việc triển khai “Quy chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các cơ quan trong nước về công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài”; 100% cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trang thông tin điện tử cập nhật ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh; 10/96 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (10,4%) có trang thông tin điện tử cập nhật ngôn ngữ tiếng bản địa ngoài tiếng Việt và tiếng Anh; 05/96 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (5,2%) phối hợp với cơ quan trong nước mời phóng viên nước ngoài quảng bá về Việt Nam; 15/96 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (15,6%) phối hợp với cơ quan trong nước trong việc tổ chức các sự kiện tại nước ngoài2. Như vậy, chỉ tính riêng về cơ quan báo chí đối ngoại, có sự phát triển vượt bậc từ năm 2011, cả nước chỉ có 40 báo, tạp chí đối ngoại với trên 700 ấn phẩm, thì năm 2020, có 240 cơ quan báo chí đối ngoại3.
Phương thức thông tin đối ngoại ngày càng đổi mới, đa dạng và sáng tạo, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Thông qua các con đường ngoại giao Đảng, Nhà nước, nhân dân, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên Hợp quốc, có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và khu vực, có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ4. Các phương thức tuyên truyền đối ngoại truyền thống tiếp tục được phát huy thông qua tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, xúc tiến thương mại, đầu tư, kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, các sự kiện chính trị, đối ngoại hằng năm, các cuộc hội thảo quốc gia, quốc tế... Năm 2020, Việt Nam tổ chức thành công các hoạt động tuyên truyền đối ngoại: Tổ chức 02 cuộc triển lãm ảnh và phim phóng sự tài liệu về đất nước, con người, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu tại Lâm Đồng và Bình Phước trong khuôn khổ các hoạt động năm Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN; tổ chức trưng bày ảnh và phim phóng sự phục vụ bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 tại Hà Nội; sản xuất 67 phim tài liệu trong chuyên mục Văn hóa và hội nhập được phát sóng định kỳ trên VOV, Truyền hình thông tấn và một số đài truyền hình trong nước; sản xuất 10 video clip về 10 nước ASEAN; sản xuất phim về quan hệ Việt Nam - Indonexia, Việt Nam - EU; xuất bản sách “Việt Nam thường niên 2020”. Tổng số tin bài trên Trang tin Vietnam.vn, cổng thông tin Aseanvietnam.vn; Vietbao.vn; chuyên trang Việt - Lào là 11.000 tin, bài và 1050 video, clip5.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, thông tin đối ngoại nhân dân góp phần quan trọng vào thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, nhất là trong việc phát triển quan hệ đặc biệt với Lào, tăng cường quan hệ với Campuchia, củng cố quan hệ với Liên bang Nga và các nước Đông Âu, các nước bạn bè truyền thống, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và các nước Tây Âu... Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức nhân dân các nước, nhất là với các tổ chức hòa bình, cánh tả, cựu chiến binh của Mỹ, triển khai nhiều hoạt động hòa bình, thiện nguyện, hỗ trợ Việt Nam như: phẫu thuật nụ cười, rà phá bom mìn, hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam, đi bộ vì hòa bình... góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đưa các cựu thù trở thành đối tác. Kể từ tháng 1-1992, khi tách ra khỏi Ban Đối ngoại Trung ương, thành một tổ chức chính trị - xã hội chuyên trách về đối ngoại nhân dân, Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam ngày càng lớn mạnh với 116 tổ chức thành viên, gồm 64 tổ chức hữu nghị ở Trung ương và 52 Liên hiệp hữu nghị ở địa phương, đã thiết lập quan hệ hợp tác với hơn 1.000 tổ chức quốc gia, khu vực, quốc tế6.
Bốn là, công tác thông tin đối ngoại góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước.
Công tác thông tin đối ngoại đã góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh - quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, vị thế của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã phát triển đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế: Tháng 7-1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN; tháng 11-1998, thành viên của APEC; tháng 1-2007, thành viên của WTO; từng bước trở thành một trong những nền kinh tế hội nhập toàn diện nhất thế giới qua các cấp độ song phương, đa phương và khu vực, theo các hình thức và khung khổ khác nhau; đã ký kết và thông qua nhiều FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA)...Điểm sáng trong hội nhập kinh tế quốc tế là Việt Nam đã phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, góp phần thúc đẩy triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế ASEAN với các đối tác. Năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện, có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ; là một trong 10 nền kinh tế có độ mở cửa thị trường lớn nhất thế giới với tỷ trọng xuất nhập khẩu/ GDP tăng liên tục qua các năm; có 71 quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Nếu như giai đoạn (1988-2004), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký ở Việt Nam đạt 57,85 tỷ USD, thì đến giai đoạn (2005-2021), vốn FDI đăng ký đạt gần 460 tỷ USD, đặc biệt năm 2019, vốn đăng ký đạt mức kỷ lục là 39 tỷ USD7. Theo Báo cáo thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO ghi nhận trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 (2009), lên vị trí thứ 23 (2019) và lọt vào top 20 (2021). Về các chỉ số xếp hạng quốc tế, theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam được cải thiện mạnh trong 10 năm (2007-2017), chỉ số GCI của Việt Nam tăng 13 bậc từ hạng 68/131 vào năm 2007 lên 55/137 vào năm 2017. Năm 2019, Việt Nam lọt vào top 10/163 nước đáng sống nhất thế giới8.
Thông tin đối ngoại có những đóng góp thiết thực vào những thành tựu giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội của đất nước trong 35 năm đổi mới: Đảng và Nhà nước trong những năm đổi mới luôn coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, nên chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Thông qua những kênh thông tin khác nhau, thông tin đối ngoại tranh thủ được những sự đóng góp, tài trợ, viện trợ cho sự phát triển hợp tác quốc tế của giáo dục Việt Nam. Năm 2021, Việt Nam có 10 nhà khoa học lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2021 trong các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ, khoa học máy tính, khoa học môi trường, khoa học vật liệu, cơ khí và kỹ thuật hàng không vũ trụ, y học cộng đồng, trong đó có 5 nhà khoa học được xếp vào nhóm 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới9. Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo được mở rộng, trong giai đoạn (2016-2020), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và cấp Bộ. Năm 2021, Tạp chí U.S. News & World Reports của Hoa Kỳ công bố Bảng xếp hạng các trường đại học tốt nhất toàn cầu năm 2022, Việt Nam có 5 trường là Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Duy Tân. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với hơn 90 quốc gia, vùng lãnh thổ, là thành viên của hơn 100 tổ chức quốc tế, khu vực về khoa học và công nghệ10. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông phát triển đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Kết cấu hạ tầng thông tin và truyền thông được mở rộng với 6 tuyến cáp quang biển quốc tế, là một trong những nước đầu tiên trên thế giới thử nghiệm công nghệ 5G trên thực tế vào năm 2020, đã phóng thành công Vệ tinh VINASAT-1 (2008), VINASAT-2 (2012) và VNREDSAT-1 (2013), góp phần khẳng định vững chắc chủ quyền trên không gian, đưa thông tin liên lạc tới mọi vùng miền của Tổ quốc. Theo đánh giá của WEF, Việt Nam đứng thứ 32/120 quốc gia được đánh giá trên toàn cầu về số lượng và mức độ hấp dẫn của các tài nguyên văn hóa và thiên nhiên, đứng thứ 5 tại khu vực Đông Nam Á (sau Xingapo, Malaixia, Thái Lan và Indonexia) và được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới. Trong lĩnh vực thể thao, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế về thể thao với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ủy ban Olympic Việt Nam là thành viên chính thức của Ủy ban Olympic quốc tế, Hội đồng Olympic châu Á và Liên đoàn thể thao Đông Nam Á11.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, hoạt động thông tin đối ngoại có nhiều đóng góp quan trọng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và phát triển đất nước. Là quốc gia nằm ở Đông Nam bán đảo Đông Dương, có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, phía Tây tiếp giáp với Lào và Campuchia; có 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam trông ra biển với đường bờ biển dài 3.260km, từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam; là cầu nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của lục địa Á-Âu với khu vực Đông Nam Á đa sắc tộc, giàu tài nguyên.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo vệ các tuyến biên giới trên đất liền, các lực lượng chủ lực trong công tác thông tin đối ngoại tại khu vực biên giới đã chủ động triển khai các hình thức thông tin, tăng cường thông tin đối ngoại ở khu vực cửa khẩu; sản xuất các sản phẩm thông tin cấp cho các xã, phường biên giới, xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về biên giới lãnh thổ trên các ấn phẩm báo chí; xây dựng các chương trình phát thanh, truyền hình và chương trình tuyên truyền đối ngoại phát trên hệ thống nghe nhìn ở khu vực cửa khẩu, đầu tư các thiết bị thông tin cơ sở... Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2020, có 20/25 tỉnh biên giới trên đất liền đã đầu tư hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền đối ngoại của các xã biên giới; 100% được đầu tư Đài Truyền thanh, truyền hình; 10 tỉnh đầu tư 100% Đài Truyền thanh cho các xã biên giới. Tính đến năm 2020, toàn quốc có 36 cửa khẩu quốc tế đường bộ (trong đó có 17 khu kinh tế cửa khẩu), 12 cửa khẩu quốc tế hàng không, 21 cửa khẩu quốc tế đường biển và 02 cửa khẩu quốc tế dường sắt, đã xây dựng được 11/36 Cụm thông tin đối ngoại ở các tỉnh Quảng Trị, Cao Bằng, Lào Cai, Tây Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Kiên Giang, Lạng Sơn và Điện Biên12.
Đối với việc tuyên truyền đối ngoại về chủ quyền của Việt Nam trên biển, đảo: Công tác thông tin đối ngoại luôn khẳng định quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Ngày 9-2-2007, Nghị quyết số 09-NQ/TW của Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, xác định rõ Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển; Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Trung ương; ngày 23-3-2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 373QĐ/TTg phê duyệt “Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam”; năm 2012, Luật biển Việt Nam được Quốc hội thông qua, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý, sử dụng hiệu quả các vùng biển, đảo, bảo vệ tài nguyên môi trường biển của Việt Nam. Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, thông qua Luật biển 2012, là những cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, trong đó có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 28-7-2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 930/QĐ-TTg Phê duyệt “Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam giai đoạn 2018-2020”, xác định tuyên truyền biển, đảo là nhiệm vụ quan trọng và lâu dài cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, trong bối cảnh cụ thể.
Năm là, góp phần gắn kết chặt chẽ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Từ khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (năm 1993), công tác thông tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai rộng rãi, thay đổi mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức để chuyển tải đến cộng đồng những thông tin cập nhật về tình hình đất nước, tạo được sự quan tâm to lớn của dư luận quốc tế, kiều bào ở nước ngoài. Nhờ có những thông tin chính xác, khách quan về môi trường đầu tư trong nước, sự cởi mở kêu gọi, thu hút đầu tư của Chính phủ, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tích cực đầu tư vào trong nước. Theo thống kê của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đến cuối năm 2002, có khoảng 800 dự án được đăng ký theo “Luật Khuyến khích đầu tư trong nước”, với tổng số vốn 1.000 tỷ đồng. Đến năm 2006, có 1.465 dự án của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về trong nước với khoảng 3.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD13. Lượng kiều hối hằng năm của kiều bào gửi về thăm thân nhân, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh ngày càng tăng: Nếu như năm 1994, lượng kiều hối được gửi về nước là 227 nghìn USD, thì năm 2010 là 8 tỷ USD. Theo đó, kiều bào về thăm quê hương cũng ngày càng tăng: Nếu như năm 1993, chỉ có 160.000 lượt người Việt Nam ở nước ngoài nhập cảnh, thì đến năm 2006 là 561.000 lượt người14. Hằng năm, có khoảng 400-500 lượt chuyên gia, trí thức kiều bào tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ ở Việt Nam. Năm 2020, có 3.500 dự án, doanh nghiệp do kiều bào từ Hoa Kỳ, Canada, Oxtrâylia, Nga, Pháp, Cộng hòa Séc, Hà Lan... thành lập và góp vốn tại 50/63 tỉnh, thành phố trên cả nước với số vốn đăng ký lên 11 tỷ USD tập trung vào các lĩnh vực du lịch, bất động sản, sản xuất hàng xuất khẩu, thủy sản... Trong những năm đất nước còn khó khăn, kiều bào trên khắp thế giới đã có nhiều hành động thiết thực “đồng cam cộng khổ” với đồng bào trong nước khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Khi “Tổ quốc gọi tên mình”, hàng triệu trái tim của người con đất Việt ở khắp năm châu, đã cùng chung nhịp đập, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trên mặt trận đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành khắp thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã chung tay quyên góp hơn 80 tỷ đồng cùng nhiều trang thiết bị y tế ủng hộ Quỹ Vaccin phòng, chống dịch COVID-19. Mặc dù, chịu tác động bởi đại dịch COVID-19, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam năm 2021 vẫn tăng 5,2% so với năm 2020, đạt 18,1 tỷ USD. Nhiều chuyên gia, trí thức Việt Nam cũng đã tập hợp, thành lập các Mạng lưới Đổi mới sáng tạo ở nước sở tại và trong nước như Mạng lưới Đổi mới sáng tạo Việt Nam tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Châu Âu; thành lập một số hội nhóm như Liên hiệp các Hội Thanh niên, Sinh viên Việt Nam tại châu Âu tháng 9-2021, Hội Trí thức kiều bào hỗ trợ đổi mới sáng tạo và thương mại hóa công nghệ (tháng 12-2021)... với nhiều sáng kiến, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, đóng góp cho đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thông tin đối ngoại từ năm 1986 đến nay vẫn còn những hạn chế, tồn tại: Sau khi Đảng ban hành các chủ trương về công tác thông tin đối ngoại, các cơ quan Nhà nước chậm ban hành các văn bản triển khai. Các văn bản ban hành trên thực tế còn thiếu tính thống nhất, chưa đồng bộ, xuyên suốt. Cơ chế chỉ đạo, phối hợp chưa phát huy hết hiệu quả, có những lúc còn chậm ứng phó, chưa theo kịp diễn biến tình hình, nhất là trong việc xử lý các vấn đề nhạy cảm. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc cung cấp thông tin đối ngoại, thông tin phát ngôn “còn nhiều lúng túng, dẫn đến hiệu quả của công tác phát ngôn chưa cao. Lập luận phát ngôn cũng còn hạn chế do mức tiếp cận thông tin của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao còn thấp. Cơ chế phối hợp thông tin giữa Vụ thông tin báo chí, đơn vị phát ngôn của Bộ với các cơ quan ngoài vẫn theo cơ chế xin - cho, chưa có sự chủ động từ phía các Bộ, ngành, địa phương”15. Bộ máy chỉ đạo, điều hành quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại chậm được kiện toàn. Sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, sắc bén, kém hiệu lực. Lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại còn phân tán. Thiếu bộ máy chỉ đạo thống nhất16. Bộ máy tổ chức và lực lượng cán bộ chuyên trách làm thông tin đối ngoạiu tại các Đại sứ quán và các địa phương trong nước còn mỏng, chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về thông tin đối ngoại. Nội dung thông tin, quảng bá hình ảnh Việt Nam trên các kênh thông tin đối ngoại, mặc dù đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn thiếu phong phú, thiếu chiều sâu, thiếu sức thuyết phục và trùng lắp.
Qua 36 năm (1986-2023), trên cơ sở đường lối đổi mới đối ngoại của Đảng, công tác thông tin đối ngoại đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới và mang thế giới đến với Việt Nam một cách nhanh chóng, hiệu quả, thu hút được nhiều nguồn lực bên ngoài cho công cuộc đổi mới đất nước, nâng tầm vị thế, hình ảnh của đất nước trên trường quốc tế. Hình ảnh đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp được bạn bè quốc tế biết đến thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau, trong đó có sự đóng góp của công tác thông tin đối ngoại.
Ngày nhận bài 23/6/2023; ngày thẩm định 28/8/2023; ngày duyệt đăng 30/8/2023
1. Bộ Thông tin và Truyền thông – Cục thông tin đối ngoại: Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và chương trình công tác năm 2020, tr 5.
2, 5, 12. Bộ Thông tin và Truyền thông – Cục thông tin đối ngoại: Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và chương trình công tác năm 2021, tr 8, 3, 8.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông: Sách trắng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2021, Nxb Thông tin và truyền thông, H, 2021, tr 154.
4. Dẫn theo: Nguyễn Thị Mai: “Công tác thông tin đối ngoại trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4-2022, tr 97.
6. http://vufo.org.vn/Lien-hiep-cac-to-chuc-huu-nghi-Viet-Nam-70-nam-phan-dau-vi-hoa-binh-huu-nghi-hop-tac-va-phat-trien-49-5169.html?lang=vn, truy cập ngày 12-10-2021.
7. 11. Ban Tuyên giáo Trung ương – Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại: Rạng danh Tổ quốc cơ đồ Việt Nam – Dấu ấn 2021, Nxb CTQGST, H, 2021, tr 35, 64.
8.https://baochinhphu.vn/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-doi-moi-va-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-102220110083625022.htm, truy cập ngày 12-10-2021.
9.https://www.vietnamplus.vn/10-nha-khoa-hoc-viet-nam-co-ten-trong-bang-xep-hang-hang-dau-the-gioi/811911.vnp, truy cập ngày 12-10-2021.
10.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/824943/thuc-day-hop-tac-quoc-te-de-tang-cuong-tiem-luc-khoa-hoc---cong-nghe-quoc-gia.aspx, truy cập ngày 15-10-2021.
13, 14. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài: Kỷ yếu Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài, H, tháng 11-2009, tr 4, 15.
15. Đào Việt Trung: “Tiếp tục đổi mới công tác thông tin đối ngoại”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 14-2008, tr. 14.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Toàn tập, tập 52 Nxb CTQG, H, H, 2007, tr. 57.