Tóm tắt: Quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI từ năm 1986 đến nay, đã tạo được những chuyển biến tích cực và làm thay đổi mọi mặt trong đời sống kinh tế, xã hội cũng như văn hoá của Việt Nam. Trong dòng chảy đó, hoạt động buôn bán của phụ nữ nông thôn vùng châu thổ sông Hồng có nhiều khởi sắc, góp phần vào việc phát triển kinh tế của gia đình và địa phương. Bài viết phân tích những kết quả nghiên cứu của một số học giả nước ngoài về hoạt động buôn bán của những người phụ nữ ở đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới; rút ra số nhận xét và giải pháp.

Từ khóa: Hoạt động buôn bán; chợ truyển thống; nông thôn châu thổ sông Hồng

1. Hoạt động buôn bán của những người phụ nữ ở đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới

Trong sự vận động không ngừng của quy luật thị trường, hoạt động buôn bán nhỏ bắt đầu được phát triển và dần dần được nâng lên ở tầm cao hơn. Nghiên cứu của E. Horat, Endres Kristen và một số học giả trong và ngoài nước khác cho thấy, sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới hoạt động buôn bán ở một số làng nông thôn Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực cả về quy mô cũng như tính chất. Ví dụ, trường hợp làng Ninh Hiệp, hoạt động buôn bán ở Ninh Hiệp hiện nay không còn là hoạt động buôn bán nhỏ mang tính cá thể nữa mà bắt đầu chuyển sang mô hình vừa (kinh doanh ở quy mô hộ gia đình) và mô hình lớn (sự hình thành 2 khu chợ tư nhân mới do doanh nghiệp lớn quản lý và vận hành), mạng lưới kinh doanh không dừng lại ở cấp độ liên vùng mà vươn ra nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Hồng Kông,…). Sự phát triển này cũng kéo theo sự chuyển đổi vị trí về giới trong hoạt động buôn bán ở vùng nông thôn. Đàn ông từ vị trí là người trợ giúp cho phụ nữ, nay đã có vị trí ngang bằng, thậm chí cao hơn. Có thể thấy, sự thay đổi về chính sách, phương thức quản trị, sự phát triển của quy luật thị trường đã có ảnh hưởng không nhỏ tới vị trí về giới trong gia đình và làm suy yếu vị thế của phụ nữ trong hoạt động buôn bán nhỏ. Dù vậy, ở Ninh Hiệp luôn tồn tại nhiều loại hình kinh doanh khác nhau, khi buôn bán lớn phát triển không có nghĩa buôn bán nhỏ bị triệt tiêu; khi đàn ông đi buôn lớn không có nghĩa là phụ nữ sẽ ở nhà. Họ vẫn duy trì song song hoạt động kinh doanh của cả vợ lẫn chồng. Đây là một hiện tượng đặc biệt có lẽ được kế thừa từ truyền thống buôn bán của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ. Tuy nhiên, có lẽ do quá chú trọng đến những biến đổi kinh tế hiện đại và chú ý quá mức đến sự tác động của chính sách mà trong các nghiên cứu trước đây chưa tập trung lý giải hiện tượng phát triển này từ góc độ lịch sử và văn hoá mà thuần tuý đi vào những biến đổi mang tính đương đại hay cục bộ. Qua đây có thể thấy các nghiên cứu đa phần tập trung vào nghiên cứu trường hợp cụ thể một làng buôn bán hay một làng tiểu thủ công nghiệp nào đó mà thiếu vắng những nghiên cứu trên một phạm vi rộng hơn, từ đó sẽ có cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa sắc cạnh về hoạt động buôn bán của phụ nữ trong mối quan hệ nội vùng và liên vùng.

Trước thời kỳ đổi mới (1986), chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của rất nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là kinh tế hàng hoá. Mọi hoạt động sản xuất từ nông nghiệp tới thủ công nghiệp và công nghiệp đều bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ, bao tiêu từ khâu đầu vào cho tới đầu ra. Sau 1986, khi nhà nước tiến hành chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì những nguồn lực nội tại của vùng vốn bị kìm hãm trước nay đã có cơ hội vươn lên mạnh mẽ, đánh dấu bước chuyển lớn trên toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế.

Đối với kinh tế chung của đồng bằng Bắc Bộ, nông nghiệp luôn giữ vai trò trọng yếu, là nền tảng của các ngành khác. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ cấu kinh tế từ truyền thống cho tới trước đổi mới (1986) vẫn luôn chú trọng phát triển buôn bán, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng nhưng không quyết định những đóng góp lớn về giá trị kinh tế cho xã hội. Sau đổi mới, Nhà nước bắt đầu có nhiều chính sách thuận lợi hơn cho phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Trong sự vận động không ngừng của quy luật thị trường, hoạt động buôn bán nhỏ nhỏ bắt đầu được phát triển và dần dần được nâng lên ở tầm cao hơn. Chính sách đổi mới (1986) đã đánh dấu những chuyển biến tích cực và làm thay đổi mọi mặt trong đời sống kinh tế, xã hội cũng như văn hoá của Việt Nam và hoạt động buôn bán của phụ nữ nông thôn cũng không nằm ngoài sự vận động đó. Nếu ở thị trường lớn, có thể nói chính sách “cởi trói nền kinh tế” đã mang lại nhiều cơ hội tạo nên một bước ngoặt quan trọng thay đổi hiện trạng nền kinh tế. Còn đối với những thị trường nhỏ ở nông thôn, những chuyển đổi chung của nền kinh tế vi mô đã tác động thế nào? Đây là một vấn đề được khá nhiều nhà khoa học quan tâm.

Hoạt động buôn bán ở nông thôn được một số học giả trong nước nghiên cứu từ góc độ chợ làng, nội dung cơ bản là vai trò của chợ trong cấu trúc kinh tế xã hội làng xã, vai trò của chợ đối với sự phát triển cộng đồng và xu hướng phát triển của chợ trong tương lai. Chủ thể tham gia vào hoạt động buôn bán (buôn bán ở chợ) là phụ nữ xuất hiện trong nghiên cứu một cách rất mờ nhạt, hay nói một cách chính xác là chưa có những chuyên khảo riêng nghiên cứu về hoạt động buôn bán của phụ nữ nông thôn mặc dù vị trí của họ trong kinh tế nông thôn tương đối quan trọng. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu như: Chợ nông thôn châu thổ sông Hồng trong quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới (nghiên cứu trường hợp chợ Ninh Hiệp, chợ Hữu Bằng, chợ Thổ Tang1; công trình “Nguời buôn bán nhỏ vùng Trung du Bắc Bộ”2.

 Các học giả quốc tế khá quan tâm đến sự biến đổi của kinh tế Việt Nam sau chính sách đổi mới, vấn đề thu hút họ là nền kinh tế vi mô, đặc biệt là hoạt động buôn bán nhỏ và đối tượng nghiên cứu chính là phụ nữ.

Trong chuyên khảo: Trading in Uncertainty: Entrepreneurship, Morality and Trust in a Vietnamese Textile-Handling Village Esther Horat đã nghiên cứu hoạt động buôn bán ở một làng nghề thủ công vùng nông thôn châu thổ sông Hồng - làng Ninh Hiệp, để thấy được những biến đổi mạnh mẽ của kinh tế làng xã sau chính sách đổi mới (1986). Bắt nguồn từ lý thuyết về “chủ nghĩa tân tự do” và khái niệm “quản trị gián tiếp” E. Horat đã chú trọng đến vai trò của nhà nước trong quá trình tư nhân hóa nền kinh tế ở Ninh Hiệp sau Đổi mới. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi chính sách đổi mới đã được triển khai một thời gian, nhà nước chú ý đẩy mạnh kinh tế tư nhân, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình, cũng là thời kỳ ở Ninh Hiệp hoạt động kinh tế hộ gia đình phát triển vô cùng mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu, hoạt động thương mại ở Ninh Hiệp vẫn là buôn bán nhỏ nhỏ gắn với vai trò chủ đạo của phụ nữ, người đàn ông chỉ trợ giúp vợ hoặc mẹ những công việc phụ trong gia đình hoặc dọn dẹp, sắp xếp, vận chuyển hàng hoá3. E. Horat đã đưa ra những con số về vai trò của phụ nữ ở Ninh Hiệp đối với kinh tế hộ gia đình: Trên một trang báo mạng nói rằng, bộ phận lao động khá đặc biệt trong các gia đình Ninh Hiệp gần đây đã gặp phải tình trạng căng thẳng vì các bà vợ được xem là trụ cột của kinh tế hộ gia đình và được cho là đóng góp 90% vào thu nhập hộ gia đình (N.N. 2015)4. Vậy, vị trí người đàn ông ở đâu? Tác giả bài báo mạng này đã cho rằng con số này chỉ ra mâu thuẫn với câu tục ngữ của người Việt “của chồng công vợ” và đối với trường hợp Ninh Hiệp cần đổi lại là “của vợ công chồng”. Có thể thấy, với một làng buôn có truyền thống như Ninh Hiệp, dù có những thời điểm bị gián đoạn (thời kỳ tập thể hoá) nhưng khi có điều kiện chắc chắn sẽ bùng lên mạnh mẽ. 

Jayne-Werner thông qua nghiên cứu cụ thể về một xã (xã Quang) ở huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, đã xem xét vấn đề giới ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các mối quan hệ trong gia đình và nhà nước kể từ khi bắt đầu đổi mới (1986). Trong nghiên cứu này, đối tượng phụ nữ được nghiên cứu cũng chủ yếu tham gia vào hoạt động chạy chợ, buôn bán bên cạnh nghề chính là nông nghiệp. Jayne Werner đã nhận xét “Họ đã thực hiện phần lớn lao động nông nghiệp trong canh tác lúa nước, nuôi lợn, gà và chăm sóc vườn rau quả gần nhà cũng như thực hiện hầu hết các hoạt động buôn bán nhỏ ở các chợ địa phương và thành thị, bán sản phẩm của họ hoặc mua các mặt hàng khác. Phụ nữ luôn quản lý các nguồn lực kinh tế của gia đình, bao gồm ngân sách hàng ngày và dự trữ tiền mặt và được kỳ vọng là người quản lý tốt và có tài chính tốt. Họ đảm nhận nhiều vai trò quan trọng trong gia đình mà tất cả các thành viên trong gia đình phụ thuộc. Những phụ nữ mạnh mẽ, có năng lực, rõ ràng được đánh giá cao, được khen ngợi và được đối xử với sự tôn trọng đáng kể của cộng đồng khi họ già đi”5.Trong chuyên khảo này, bằng nhiều nguồn khác nhau, Jayne Werner chứng minh rằng mặc dù Hội phụ nữ là tổ chức chính thức về bình đẳng giới ở Việt Nam, nhưng phụ nữ không nắm giữ quyền lực lớn, mà đàn ông vẫn luôn chiếm địa vị quan trọng trong cả gia đình và cộng đồng. Như vậy, rõ ràng sau đổi mới (1986), vai trò của phụ nữ đã thay đổi nhiều, phụ nữ tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế và có đóng góp không nhỏ tới đời sống hộ gia đình nhưng quan niệm Nho giáo vốn tồn tại qua nhiều thế kỷ vẫn bảo vệ người đàn ông ở một vị trí trang trọng.

Phụ nữ Phù Lưu, Đình Bảng xưa nay quen việc chạy chợ, buôn bán, đi mua hàng nơi khác rồi về chợ làng mình kiếm lấy lời, hơn nữa công việc chạy chợ rất vất vả nên đối với các làng này, địa vị phụ nữ và đàn ông có sự khác biệt với các làng khác.

Ngay từ năm đầu đổi mới, khi bắt đầu phát triển kinh tế hộ gia đình, hầu hết các gia đình ở Phù Lưu đều tách khỏi HTX nông nghiệp, HTX buôn bán, họ phát triển kinh tế tư nhân. Đầu tiên là việc chợ Giầu (chợ huyện) được tái cấu trúc theo cơ chế kinh tế thị trường; có Ban quản lí chợ được thành lập theo sự chỉ đạo của UBND huyện Tiên Sơn khi đó (nay là UBND Thành phố Từ Sơn); các quầy hành, cửa hàng, cửa hiệu được cho thuê (thuê theo năm) hoặc bán cho các hộ gia đình; các hộ kinh doanh tại chợ, hằng tháng đều phải nộp thuế chợ. Cơ chế mới mở ra, các hộ gia đình ở Phù Lưu lại tấp nập quay lại với việc “tay đẫy tay nải đi buôn”. Đi buôn xưa nay ở Phù Lưu nói riêng và vùng châu thổ sông Hồng nói chung đều được xem là công việc của phụ nữ. Những quan niệm này mang tính mặc định, ăn sâu vào tiềm thức của người dân. Ở Phù Lưu, đàn bà đi buôn, đàn ông ở nhà học hành đèn sách. Nếu như ở các làng nông nghiệp, những diễn ngôn đề cao vai trò của phụ nữ trong sản xuất, phổ biến kiến thức và phương thức sản xuất mới trong giai đoạn đầu đổi mới thì với các làng buôn như Phù Lưu, Đình Bảng, công việc buôn bán mang tính cá nhân hoá, gia đình hoá cao hơn. Ở các làng này không có các phường buôn, hội buôn để chia sẻ kinh nghiệm hay nguồn hàng. Mỗi gia đình đều có những mối hàng riêng từ trước hoặc tự kiếm mối hàng mới. Chính quyền giai đoạn này cũng tạo điều kiện thuận lợi về mặt chính sách phát triển thương nghiệp, buôn bán. Ngoài các gia đình đăng ký được quầy hàng cửa hàng tại chợ, nhiều hộ gia đình mở các loại hình kinh doanh mới tại nhà: cắt tóc gội đầu, karaoke, kinh doanh nhà hàng, nhà nghỉ, cửa hàng điện nước, tạp hoá,… Nhiều gia đình ở các trục đường lớn kinh doanh những mặt hàng đắt đỏ hơn như kinh doanh xe đạp, xe máy, đồ điện tử,… Đối với những mặt hàng kinh doanh nhỏ lẻ đa phần là phụ nữ đảm nhiệm, họ vừa buôn bán một cách linh động (có thể mở hoặc đóng cửa hàng linh hoạt tuỳ theo thời gian của mình) vừa làm ruộng, vừa chăm sóc con cái và làm các công việc khác. Hình thức kinh doanh này khá phổ biến nhưng không mang tính chuyên nghiệp như những hộ kinh doanh tại chợ. Hoạt động buôn bán tại chợ ở Phù Lưu, Đình Bảng do phụ nữ đảm nhiệm vai trò chủ chốt (người bán hàng), tuy nhiên để thực hiện được hoạt động buôn bán này cần có sự giúp sức của cả gia đình.

Chợ Giầu, thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh, trong những năm đầu đổi mới, xập xệ do được xây dựng từ lâu, các cầu hàng ở chợ không được xây dựng kiên cố, không có tưng bao, nhà kho nên hàng hoá không thể để lại tại chợ mà phải mang về nhà. Do vậy, mỗi sáng người nhà phụ nữ bán hàng, có thể là chồng con phải chở hàng từ nhà ra chợ từ rất sớm, sau đó về nhà ăn sáng, đi học, đi làm, chăm lo nhà cửa; khi nào rỗi, người chồng ra chợ giúp vợ bán hàng. Theo chị em phụ nữ, đây là công việc và nghề nghiệp của phụ nữ nên phụ nữ phải có trách nhiệm với công việc này vì các con phải đi học và người chồng phải làm nhiều việc trong gia đình. Hàng ngày công việc đều diễn ra như vậy, phụ nữ không có cuối tuần và không có ngày nghỉ trong năm; thời gian làm việc mỗi ngày của bà từ 12-14 tiếng/ ngày. Qua khảo sát, có thể thấy đây là một mô hình sinh hoạt chung của các gia đình làm nghề buôn bán ở Phù Lưu.

Đối với giai đoạn trước đổi mới, hoạt động buôn bán được diễn ra trong các HTX dưới sự quản lí và điều hành của chính quyền, nên người phụ nữ có thời gian hơn, họ có thể vừa làm ruộng, vừa chăm lo gia đình. Nhưng giai đoạn sau này, để tập trung cho công việc buôn bán vì cơ chế kinh doanh đã thay đổi, họ cần chăm chỉ để tối đa hoá lợi nhuận nên gần như không dành được nhiều thời gian cho việc khác. Còn khi so sánh với giai đoạn trước đó nữa thì vị trí giữa nam giới và phụ nữ trong gia đình cũng có nhiều khác biệt so với các làng thuần nông khác. 

Đối với làng buôn Đình Bảng (Thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh) hoạt động buôn bán ở đây diễn ra sớm và có nhiều tương đồng với làng buôn Phù Lưu trong quá khứ nhưng đến nay họ duy trì buôn bán nhỏ tại chợ rất ít (chợ cóc ở khu phố mang tính chất bán chuyên nghiệp, họp 1 lúc buổi sáng hoặc buổi chiều; hoặc thuê cửa hàng tại chợ Giầu); phần lớn các hộ gia đình chuyển sang mô hình kinh doanh vừa, thậm chí mở các doanh nghiệp lớn (mở doanh nghiệp sản xuất giấy, bao bì, công ty may mặc,….). Sau khi chuyển đổi mô hình kinh doanh đã kéo theo sự chuyển đổi vai trò và vị trí về giới trong hoạt động buôn bán. Trước đây, buôn bán được tiến hành bởi phụ nữ, đến nay nam giới chiếm ưu thế. Do sự chuyển đổi mô hình kinh doanh từ kinh doanh nhỏ theo lối chạy chợ sang doanh nghiệp vừa buôn bán, vừa sản xuất, người đàn ông chiếm ưu thế trong việc tìm nguồn hàng, tìm khách hàng, giao dịch với các nhà cung ứng. Tuy vậy, phụ nữ vẫn giữ vai trò là nội tướng, quản lý nhân công, hỗ trợ người chồng trong quá trình kinh doanh. Một số người chuyển đổi mô hình từ chạy chợ sang mở cửa hàng tại nhà để tiện chăm sóc con cái, chăm lo việc nhà nhưng vẫn có thể buôn bán tăng thêm thu nhập.

2. Một số nhận xét và một số giải pháp

Qua nghiên cứu hoạt động sinh kế của những người phụ nữ ở đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, nếu như trong các giai đoạn trước đổi mới, hoạt động buôn bán tại chợ chiếm ưu thế thì đến hiện nay các hoạt động mua, bán diễn ra phong phú hơn không chỉ thông qua các trao đổi trực tiếp và còn qua nhiều kênh giao dịch gián tiếp. Khi tiến hành phỏng vấn các đối tượng tham gia các hoạt động mua sắm tại hai hệ thống chợ và siêu thị chúng tôi có một số nhận xét: thứ nhất, người Việt Nam nói chung và người dân thị xã Từ Sơn hiện nay nói riêng vẫn có tâm lý thích mua sắm hàng hoá tại chợ hơn. Khi chọn ngẫu nhiên 20 người phụ nữ trong độ tuổi từ 30-50, chúng tôi nhận được gần như 100% ý kiến thích đi chợ hơn đi siêu thị. Bởi theo họ, thực phẩm ở chợ tươi hơn, giá cả rẻ hơn; ở siêu thị hàng hoá không phong phú bằng, thực phẩm thường để đông lạnh và giá cả đắt hơn từ vài nghìn đến vài chục nghìn đồng. Hiện nay, trong xã hội hiện đại, phụ nữ nông thôn đã được đi học, đi làm các công việc xã hội nhiều và họ có quyền tự ra quyết định với công việc của chính họ. Qua nghiên cứu thực tế, hoạt động buôn bán nhỏ (không phải doanh nghiệp và công ty) phù hợp với phụ nữ và nó được tiếp nối bởi truyền thống từ xưa, đúng với tinh thần của bao thế hệ truyền lại.

Thứ hai, khi đối tượng phỏng vấn là những người trẻ trên dưới 20 tuổi và một số nam giới thì tỷ lệ giữa việc lựa chọn đi siêu thị hay đi chợ là 50/50. Nguyên nhân chính là ở siêu thị có nhiều dịch vụ đi kèm như ăn uống, vui chơi, khu chơi game cho người lớn và trẻ nhỏ, nên một số người trẻ hay các gia đình có con nhỏ thường lựa chọn siêu thị như một địa điểm vui chơi giải trí. Loại hình mua sắm thứ ba hiện nay cũng khá phổ biến ở Thành phố Từ Sơn đó là mua hàng online thông qua facebook, kênh bán hàng trực tuyến (shoppee, sendo, lazada,…) các website có dịch vụ giao hàng thông qua ứng dụng giao hàng (grab,…). Người mua hàng có thể ngồi ở nhà, chọn lựa hàng và được giao đến tận nơi. Các mặt hàng được đưa ra mua bán online cũng khá phong phú từ rau, củ, quả, thực phẩm cho đến quần áo, mỹ phẩm. Những người bán hàng online do không phải thuê mặt bằng kinh doanh nên giá cả rất hợp lý, có tính cạnh tranh cao so với cách kinh doanh truyền thống. Như vậy, rõ ràng trong thời hiện đại, loại hình kinh tế hàng hoá truyền thống (chợ, chợ làng, chợ huyện, chợ thị) không còn là một kênh mua sắm duy nhất nữa mà có những lựa chọn đa dạng hơn. Vậy, vấn đề đặt ra là loại hình buôn bán truyền thống ở Phù Lưu, Đình Bảng, Ninh Hiệp,… và nhiều làng buôn khác vốn tồn tại nhiều thế kỷ sẽ được duy trì thế nào trong tương lai? Liệu hoạt động loại hình sinh kế này có còn duy trì được tính bền vững trước sự thay đổi của yếu tố cung - cầu; trước sự đa dạng của các hình thức buôn bán trong thời đại công nghệ số. Thực tế, giống như một số làng buôn khác như Ninh Hiệp trong nghiên cứu của Horat, để thích nghi với nền kinh tế hậu hiện đại, người Ninh Hiệp đã một phần thoát khỏi lối buôn nhỏ lẻ, trong đó phụ nữ đóng vai trò chính và dần chuyển sang buôn lớn, là đầu mối nhập hàng và phân phối cho khác bán lẻ. Họ ứng dụng công nghệ trong buôn bán, nhập hàng từ Trung Quốc thông qua việc đặt hàng qua website, sau đó có đơn vị vận chuyển hàng hoá tới tận kho. Đồng thời, các chủ buôn này cũng bán hàng cho khách lẻ thông qua cả hai hình thức trực tuyến và trực tiếp xem hàng tại chợ hay kho hàng. Mặc dù vậy, họ vẫn duy trì hoạt động bán lẻ với các quầy hàng, gian hàng tại chợ theo phương thức truyền thống để đa dạng nguồn khách và tìm kiếm khách hàng mới, bởi chợ vẫn là trung tâm buôn bán chính thức mà người mua hàng khắp nơi tìm tới. Do vậy, đứng trước những khó khăn hiện tại, muốn duy trì sinh kế bền vững, các thương nhân nhỏ buộc phải tìm cho mình một hướng đi phù hợp nhất dựa trên các loại nguồn lực (vốn) như điều kiện tự nhiên, vật chất, xã hội, tài chính và con người để thay đổi cho phù hợp với nhu cầu hiện tại.

Thứ ba, đồng bằng sông Hồng vốn là vùng dân cư quần tụ đông đúc, diện tích canh tác không nhiều nên phần nào tác động đến việc người dân sớm phải lo sinh kế phù hợp, từ đó ra đời nhiều làng nghề thủ công, đặc biệt là loại hình làng buôn. Làng Giàu - Phù Lưu, làng buôn Đình Bảng, làng Ninh Hiệp,… ngay từ thế kỷ XVII, XVIII đã trở thành làng buôn nổi tiếng bậc nhất xứ Bắc, phát triển hoạt động buôn bán cả trong vùng cũng như liên vùng. Ở đây không thể không nhắc đến vai trò của người phụ nữ trong hoạt động buôn bán, họ là những người tham gia chính vào công việc buôn bán, từ loại hình buôn bán chạy chợ nhỏ - hàng xén đến những chuyến buôn lớn từ Thăng Long - Kẻ Chợ về các vùng lân cận như Kinh Bắc, Hưng Yên, Nam Định... Thời kỳ đổi mới, khi nền kinh tế được cởi trói, hoạt động buôn bán ngày càng khởi sắc thì vai trò của phụ nữ trong đời sống kinh tế gia đình ngày càng quan trọng. Hiện nay, trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, hoạt động tiểu thương của phụ nữ ngày càng phong phú, đa dạng, góp phần quan trọng vào sinh kế hộ gia đình. Đến hiện nay, trước những thay đổi mạnh mẽ của thị trường, những thương nhân nhỏ ở vùng đồng bằng sông Hồng cũng đứng trước nhiều thách thức để làm sao duy trì ổn định nguồn sinh kế.

Qua nghiên cứu cho thấy cần có những giải pháp để hoạt động sinh kế của những người phụ nữ ở đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới có sự bền vững và phù hợp với thực tiễn.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết đưa ra quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn cũng như nhiệm vụ, giải pháp cho vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bám sát chủ trương của Đảng và từ thực tiễn, theo chung tôi có một số giải pháp sau:

 Một là, phục hồi, phát triển các làng nghề truyền thống, đồng thời tiếp nhận các ngành, nghề thủ công mới. Việc phát triển các làng nghề truyền thống giúp tạo công ăn việc làm tại địa phương, giúp người nông dân “ly nông bất ly hương”. Hình thức tạo việc làm này vẫn bảo đảm nguồn nhân lực khi mùa vụ đến, đồng thời nâng cao hiệu quả hệ số sử dụng thời gian của người nông dân, nhất là phụ nữ. Đối với những làng nghề truyền thống nhưng do biến động của lịch sử đã bị mai một, cần có kế hoạch phục hồi. Với những làng nghề đang phát triển, cần duy trì mở rộng quy mô. Bên cạnh đó, cần chủ động tiếp nhận những ngành, nghề mới phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi địa phương. Đồng thời, với quá trình phục hồi, khi mở rộng các làng nghề thủ công truyền thống cần cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần chú ý đến phát triển bền vững làng nghề cần có giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.

 Hai là, đẩy mạnh phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới, hoàn thiện các thiết chế cộng đồng xã hội. Khu vực nông thôn đang có nhiều biến đổi về mọi mặt nên việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế văn hóa, trong đó có các thiết chế văn hóa gia đình là rất cần thiết và quan trọng. Bên cạnh đó, cần củng cố và tăng cường sự đoàn kết, hỗ trợ, tương thân, tương ái trong cộng đồng, từ đó giúp người nông dân, trong đó có phụ nữ tự chuyển đổi công việc phù hợp. Trong các xã, thôn, xóm nên hình thành các quỹ tài chính theo nguyên tắc dựa vào nhau để chuyển đổi ngành nghề phù hợp với xu thế phát triển kinh tế trong bối cảnh mới. Các quỹ này sẽ được thực hiện theo hình thức luân phiên vay vốn trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra.

Ba là, tăng cường hỗ trợ tài chính cho phụ nữ nông thôn. Quá trình chuyển đổi công việc khiến phụ nữ nông thôn có nhu cầu rất lớn về vốn. Có được nguồn vốn lớn, lãi suất thấp, người phụ nữ có thể chủ động tạo công ăn việc làm cho chính mình. Do đó, chính quyền cần tăng cường hỗ trợ tài chính, nhất là tạo điều kiện cho người phụ nữ được tiếp cận với các nguồn tài chính có lãi suất thấp thông qua hệ thống tài chính của Nhà nước, như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... Chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội cần hỗ trợ thủ tục, bảo đảm tín chấp để phụ nữ ở vùng nông thôn có thể vay vốn đầu tư chuyển đổi công việc. Bên cạnh đó, có chính sách để huy động được các nguồn tài chính nhàn rỗi, hình thành các quỹ tài chính mà nguồn đóng góp từ chính những người nông dân với nhau. Việc huy động các nguồn vốn tài chính cần linh hoạt, đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau.

Bốn là, tăng cường xuất khẩu lao động là phụ nữ ở nông thôn trong độ tuổi lao động. Đây được coi là hướng đi mới trong giai đoạn hiện nay. Việc xuất khẩu lao động một mặt giải quyết công ăn việc làm cho người nông dân và phụ nữ ở vùng nông thôn nói riêng xóa đói giảm nghèo; mặt khác, mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước, mang nguồn lực tài chính lớn cho gia đình. Trên thực tế rất nhiều gia đình có nhu cầu đi xuất khẩu động nhưng gặp khó khăn về thủ tục, tài chính và trình độ tay nghề, do đó, rất cần sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu lao động, bên cạnh những thị trường truyền thống cần hướng đến những thị trường khó tính nhưng có mức thu nhập cao.

Thời kỳ đổi mới đã gần 40 năm qua, thực tiễn có nhiều biến động, nhất là sự chuyển biến kinh tế xã hội theo hướng hiện đại. Trong bối cảnh đó, phụ nữ nông thôn châu thổ sông Hồng vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh, sự linh hoạt trong thích ứng với mọi biến thiên của lịch sử duy trì sự ổn định sinh kế, thích ứng với mọi hoàn cảnh và biến đổi sinh kế cho phù hợp với tình hình thực tiễn. 

Ngày nhận bài: 28-10-2024; ngày đánh giá: 10-11-2024; ngày duyệt đăng: 22-11-2024

* Nghiên cứu này được tiến hành trong khuôn khổ đề tài Quốc gia, mã số QG.21.54 “Thương nghiệp của phụ nữ nông thôn và những tác động đến đời sống hộ gia đình ở đồng bằng châu thổ sông Hồng từ Đổi mới (1986) đến nay (nghiên cứu trường hợp làng Phù Lưu và Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)”của ĐHQGHN.

1. Lê Thị Mai: Chợ nông thôn châu thổ sông Hồng trong quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới (nghiên cứu trường hợp chợ Ninh Hiệp, chợ Hữu Bằng, chợ Thổ Tang), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002

2. Bùi Quang Dũng: Nguời buôn bán nhỏ vùng Trung du Bắc Bộ, Tạp chí Xã hội học, số 1, năm 2000, tr. 36 - 40

3, 4. Esther Horat: Trading in Uncertainty: Entrepreneurship, Morality and Trust in a Vietnamese Textile-Handling Village, First published 2018 by Cornell University Press, US, 2017, pg. 107-108, 104

5. Jayne Werner: Gender Household and State in Post-Revolutionary Vietnam, First published by Routledge, New York, 2009, pg. 6.