Tóm tắt: Những năm gần đây, vai trò của các thể chế khu vực, quốc tế bị suy yếu, thậm chí bị quay lưng trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dụng, đơn phương, chính trị cường quyền, cạnh tranh nước lớn và các trào lưu chính trị dân túy, dân tộc chủ nghĩa trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi mà hòa bình, hợp tác vì phát triển trở thành xu thế lớn, Đảng và Nhà nước Việt Nam không những vẫn đề cao vai trò của đối ngoại đa phương, xem đây là một định hướng trọng tâm trong công tác đối ngoại của Việt Nam, mà còn đặt ra nhiệm vụ “nâng tầm đối ngoại đa phương” của đất nước trong thời kỳ mới. Bài viết tìm hiểu quá trình đổi mới tư duy và thực tiễn triển khai công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam thời kỳ đổi mới và lập luận rằng, đối ngoại đa phương của Việt Nam được thúc đẩy và định hướng bởi sự gắn kết của các động lực lợi ích quốc gia và trách nhiệm quốc tế. Theo đó, việc đề cao đối ngoại đa phương của Việt Nam trước hết phản ánh tư duy lợi ích thực tế, đồng thời cũng thể hiện nhất quán chủ trương Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

Tóm tắt: Đối ngoại đa phương; lợi ích quốc gia; trách nhiệm quốc tế

1. Đối ngoại đa phương của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: chính sách và thực tiễn

Đối ngoại đa phương của Việt Nam được đặt nền móng bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi nước nhà giành được độc lập. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, công tác đối ngoại đa phương đã đóng góp quan trọng trong việc thực hiện phương châm vừa đánh vừa đàm, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tập hợp rộng rãi các lực lượng hòa bình, tiến bộ, các phong trào, diễn đàn quốc tế ủng hộ sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi. Sau khi đất nước thống nhất (1975), nước ta bước vào giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời cũng mở ra thời kỳ mới của ngoại giao nói chung, triển khai hoạt động đối ngoại đa phương nói riêng. Việc Việt Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc và các tổ chức trực thuộc, kế thừa tư cách thành viên tại các định chế tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB, đồng thời tham gia vào các cơ chế hợp tác trong hệ thống XHCN có ý nghĩa quan trọng, khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế của nước Việt Nam độc lập và thống nhất.

Bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập, tư duy và chính sách về đối ngoại đa phương của của Đảng và Nhà nước dần được định hình ngày một rõ rệt, liên tục được bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện, đạt được những thành tựu lớn, với những dấu mốc quan trọng, mang tính lịch sử trong thực tiễn triển khai chính sách. Với tư duy đổi mới của Đảng từ Đại hội VI (1986), đặc biệt là chủ trương mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế được thể hiện trong Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI (20-5-1988) là bước chuyển quan trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng, tạo nền tảng định hình công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Từ sau Đại hội VII (1991) của Đảng với tuyên bố Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, cùng với kênh song phương, đối ngoại đa phương của Việt Nam thật sự có những bước phát triển nhanh chóng mang tính đột phá. Việc Việt Nam trở thành quan sát viên ASEAN năm 1992 và chính thức gia nhập tổ chức khu vực này ngày 28-7-1995, cùng với đó là việc khai thông quan hệ với IMF, WB và ADB là những sự kiện có ý nghĩa quan trọng, tạo thuận lợi mở đường cho tiến trình hội nhập toàn diện và sâu rộng vào cộng đồng quốc tế. Từ đó, đối ngoại đa phương của Việt Nam không ngừng trưởng thành, gặt hái được những thành công lớn. Việt Nam lần lượt tham gia hầu hết các cơ chế, diễn đàn, tổ chức đa phương khu vực, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu, nổi bật có thể kể tới là tham gia ARF (1994), APEC (1998), Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh (1999), tham gia sáng lập ASEM (1996), Cấp cao Đông Á (EAS) (2005), trở thành thành viên WTO (2007).

Từ Đại hội X (2006) của Đảng tới nay, đối ngoại đa phương của Việt Nam bước sang một giai đoạn mới với việc nâng tầm từ tư duy từ hội nhập, tham gia, tuân thủ luật chơi lên mức mới sâu rộng, toàn diện, đầy đủ hơn theo tinh thần chủ động, tích cực, là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, và với định hướng là chủ động đóng góp ý tưởng, sáng kiến, xây dựng, định hình quy tắc, luật chơi chung, chủ động và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”, “tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới”, và chủ trương “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực”, đồng thời “mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”1. Tại Đại hội XI (2011) của Đảng, tư duy đối ngoại đa phương của Đảng được nâng tầm, trở thành một mũi nhọn trong đường lối đối ngoại với phương châm Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, tích cực, chủ động “mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới”2. Cụ thể hóa đường lối Đại hội XI, Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (2013) về hội nhập quốc tế chủ trương không chỉ “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương” mà còn “đóng góp, khởi xướng, đề xuất sáng kiến và tham gia định hình luật chơi” của các cơ chế, diễn đàn, tổ chức đa phương3. Đại hội XII (2016) của Đảng và sau đó là Nghị quyết số 06-NQ/TW của HNTƯ 4 khóa XII (11-2016) của Đảng, đối ngoại đa phương đã trở thành định hướng chiến lược đối ngoại được ghi trong văn kiện Đại hội với yêu cầu là đẩy mạnh, nâng tầm, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò tại các định chế đa phương, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc, góp phần định hình các cấu trúc khu vực và toàn cầu có ảnh hưởng quan trọng tới an ninh và phát triển của đất nước4. Trước tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, các thách thức toàn cầu, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt, xu hướng quay lại của chủ nghĩa dân tộc, dân túy, thực dụng, cách hành xử đơn phương, chính trị cường quyền... khiến các thể chế đa phương đứng trước nhiều thách thức, ngày 8-8-2018 Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về “Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, trong đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại đa phương trong thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”5. Chỉ thị đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó xác định các cơ chế ưu tiên là ASEAN, Liên hợp quốc, các khuôn khổ hợp tác khu vực ở châu Á-Thái Bình Dương, hợp tác tiểu vùng, tập trung trọng tâm hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, đồng thời đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh... nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước, thúc đẩy triển khai hiệu quả các cam kết khu vực và quốc tế liên quan, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Bước chuyển nâng tầm tư duy đối ngoại đa phương của Đảng đã mang lại nhiều thành quả to lớn trong thực tiễn. Đến nay, Việt Nam là thành viên tích cực của mạng lưới các hiệp định, diễn đàn, cơ chế hợp tác, đối thoại, liên kết đa phương, đa tầng nấc từ tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu rộng khắp về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội... Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại, Việt Nam là thành viên của một mạng lưới 15 FTA đa phương rộng khắp thế giới, trong đó có những FTA thế hệ mới, kết nối kinh tế Việt Nam với hầu hết các nền kinh tế, trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới, điển hình là AFTA, ACFTA, CPTPP, EVFTA, EAEU... Ở khu vực, Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm, đi đầu thúc đẩy sự đoàn kết, hợp tác liên kết kinh tế, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN năm 2015. Việt Nam tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng ở khu vực như ARF, ADMM và ADMM+, Diễn đàn Shangri-La, Diễn đàn Tokyo, hay các cơ chế hợp tác khu vực Tiểu vùng Mê Công, ACMECS... Sự trưởng thành và năng lực triển khai đối ngoại đa phương của Việt Nam còn được thể hiện ở chỗ Việt Nam đã và đang đảm trách nhiều vị trí quan trọng tại các cơ chế, tổ chức đa phương khu vực và quốc tế, tổ chức, điều hành và dẫn dắt thành công nhiều sự kiện, hội nghị, diễn đàn đa phương khu vực, quốc tế quan trọng như Cấp cao Pháp ngữ năm 1997, Cấp cao ASEAN 1998 và 2010, Cấp cao ASEM năm 2004, Cấp cao APEC 2006 và 2017. Đặc biệt, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) khóa 2008-2009, và được cộng đồng quốc tế tín nhiệm với số phiếu gần như tuyệt đối để đảm trách vị trí thành viên không thường trực của HĐBA LHQ lần thứ 2 (2020-2021). Năm 2020, Việt Nam đang đảm nhiệm vai trò kép là Chủ tịch ASEAN và thành viên HĐBA LHQ. Sự trưởng thành và nâng tầm của đối ngoại đa phương của Việt Nam cũng được thể hiện rõ qua việc tham gia và đóng góp ngày càng chủ động, tích cực, hiệu quả vào các công việc chung của khu vực, thế giới với sự đa dạng, toàn diện về cấp độ, lĩnh vực, hình thức và phương thức hoạt động. Đối ngoại đa phương và hội nhập quốc tế của Việt Nam được nâng lên tầm cao mới khi chủ động tham gia giải quyết các công việc chung của thế giới, góp phần vào kiến tạo hòa bình và hòa giải xung đột quốc tế như cử lực lượng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại châu Phi từ năm 2014 hay hoàn thành tốt vai trò chủ nhà cho cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Triều lần 2 vào tháng 6-2019, tại Hà Nội.

Cùng với kênh Nhà nước, đối ngoại đa phương kênh Đảng, Quốc hội và đối ngoại nhân dân của Việt Nam cũng ngày càng được mở rộng và phát triển mạnh mẽ, tạo nên bức tranh tổng thể năng động, toàn diện, đồng bộ của đối ngoại đa phương Việt Nam thời kỳ đổi mới, qua đó góp phần quan trọng giúp đất nước phá thế bao vây cấm vận, từng bước hội nhập quốc tế sâu rộng, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế đất nước.

 

2. Bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu và động lực chủ yếu của đối ngoại đa phương của Việt Nam

Trường phái hiện thực chủ nghĩa cho rằng chính sách đối ngoại nói chung và việc tham gia các cơ chế đa phương nói riêng của các nhà nước đầu tiên và trước hết là để bảo vệ, thúc đẩy các lợi ích quốc gia của mình. Theo Rosecrance, các quốc gia gia nhập các tổ chức quốc tế là vì nguyên nhân vị lợi. Vì vậy, nếu một quốc gia không có lợi ích gì khi trở thành thành viên của các thể chế quốc tế thì sẽ không có áp lực hay động lực nào để họ gia nhập6. Động lực chính của việc tham gia và phát huy vai trò tại các diễn đàn, thể chế đa phương khu vực, quốc tế của Việt Nam trước hết cũng phản ánh những tính toán lợi ích quốc gia trong từng thời kỳ. Việc đặt lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu tối cao của mọi hoạt động đối ngoại thực tế đã được khẳng định rõ trong các văn kiện chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ Đại hội X của Đảng đến nay, các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng liên quan đến đối ngoại và hội nhập quốc tế, bao gồm Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đều khẳng định rõ mọi hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng đều phải hướng tới mục tiêu tối cao là phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đề ra nhiệm vụ của đối ngoại đa phương là giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển đất nước nhanh và bền vững, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao đời sống của nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn, phát huy và làm giàu bản sắc dân tộc, nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của đất nước7

Như vậy, tư duy lợi ích là mục tiêu và động lực quan trọng nhất thúc đẩy Việt Nam tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế, tổ chức đa phương quốc tế, khu vực. Theo đó, đối ngoại đa phương trước hết là phương thức và công cụ chiến lược để Việt Nam theo đuổi và thúc đẩy các lợi ích quốc gia cơ bản trực tiếp và gián tiếp là an ninh, phát triển cũng như vị thế, uy tín và ảnh hưởng quốc tế.

Thứ nhất, đối ngoại đa phương đã giúp Việt Nam triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng, đa phương hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Việc gia nhập ASEAN, nối lại quan hệ với các thể chế tài chính quốc tế, khu vực đầu những năm 1990 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thoát khỏi bao vây, cấm vận và cô lập quốc tế, hội nhập dần với khu vực và thế giới rộng lớn. Tư cách thành viên ASEAN tạo thuận lợi và dễ dàng hơn cho Việt Nam trong việc thúc đẩy quan hệ với thế giới bên ngoài, đồng thời đạt được tư cách thành viên trong các cơ chế hợp tác của ASEAN hoặc ASEAN làm nòng cốt với bên ngoài như ASEM, EAS, ARF, cũng như đạt được quy chế thành viên trong các tổ chức đa phương khu vực và quốc tế khác như APEC (1998), WTO (2007). Trong khi đó, việc gia nhập WTO đã giúp nền kinh tế đất nước được tiếp cận bình đẳng với thị trường rộng lớn của hơn 150 nước thành viên, gắn kết nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam lên tầm mức sâu rộng và toàn diện. Có thể nói, tham gia và phát huy vai trò tại các thể chế, tổ chức đa phương đã giúp Việt Nam nhanh chóng đạt được các mục tiêu đối ngoại và hội nhập với thế giới trong thời kỳ đổi mới.  

Thứ hai, đối ngoại đa phương là công cụ đòn bẩy góp phần tranh thủ các nguồn lực quốc tế phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường tiềm lực quốc gia, nâng cao đời sống nhân dân. Đối ngoại đa phương của Việt Nam thời gian qua lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm ưu tiên thông qua chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hợp tác đa phương, tham gia các định chế hợp tác kinh tế, thương mại, tài chính khu vực và quốc tế để mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài đã phục vụ có hiệu quả sự nghiệp phát triển đất nước. Việc trở thành thành viên của ASEAN, APEC, WTO, tranh thủ sự trợ giúp của IMF, WB, ADB cũng như tham gia một loạt các FTA đa phương lớn như AFT, CPTPP, EAEU, EVFTA đã giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, tạo cơ hội và mở ra không gian hợp tác phát triển rộng lớn của đất nước, tranh thủ sự hỗ trợ, ủng hộ rộng rãi của các tổ chức quốc tế, của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp phát triển của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, qua đó đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng cao liên tục của kinh tế, góp phần nâng cao thế và lực cho đất nước.

Thứ ba, đối ngoại đa phương góp phần quan trọng vào việc củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ chế độ, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ Tổ quốc từ xa, “từ khi nước chưa nguy”. Trong những năm qua, các diễn đàn, hội nghị đa phương như ASEAN và các cơ chế do ASEAN cầm lái, APEC, ASEM, Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết... đã trở thành kênh ngoại giao rất quan trọng để Việt Nam lên tiếng thể hiện, thúc đẩy quan điểm, lập trường liên quan đến những vấn đề an ninh nóng bỏng của khu vực và quốc tế có ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia của mình như tranh chấp biển Đông, bảo vệ nguồn nước sông Mê Kong, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đất nước theo luật pháp quốc tế và các chuẩn mực ứng xử khu vực được thừa nhận rộng rãi. Trên thực tế, diễn đàn ASEAN và các cơ chế hợp tác khu vực như ARF, Cấp cao Đông Á, ADMM+, Đối thoại Shangri-La có ý nghĩa quan trọng cho Việt Nam thúc đẩy xây dựng lòng tin, giảm thiểu mâu thuẫn, quản lý xung đột và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia ở Biển Đông. Các diễn đàn đa phương cũng là điểm tựa quan trọng để Việt Nam nâng cao vị thế trong xử lý quan hệ với các nước lớn, đồng thời là nơi đấu tranh có hiệu quả với những tư tưởng, quan điểm sai lệch, các biểu hiện thù địch âm mưu dùng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ, phá hoại sự ổn định và phát triển của nước ta. Các cơ chế, diễn đàn đa phương cũng giúp Việt Nam thể hiện quan điểm, thúc đẩy tập hợp lực lượng, phối hợp lập trường và hành động nhằm thúc đẩy hợp tác, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ luật pháp và trật tự khu vực, quốc tế, đối phó với các thách thức an ninh khu vực. 

Thứ tư, kênh đối ngoại đa phương giúp Việt Nam thúc đẩy và làm sâu sắc hơn mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước, nhất là với các đối tác quan trọng. Diễn đàn đa phương là cơ hội để lãnh đạo của Việt Nam gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với bạn bè, đối tác, qua đó duy trì và củng cố các mối quan hệ song phương với nhiều đối tác. Thời gian qua, Việt Nam đã tận dụng rất tốt các hội nghị đa phương mà Việt Nam là chủ nhà như APEC (2006, 2017), Chủ tịch ASEAN (2010)... để đón tiếp các đoàn cấp cao thăm chính thức Việt Nam, tăng cường tiếp xúc và sự tin cậy chính trị, củng cố tình hữu nghị và lòng tin chiến lược với các đối tác quan trọng, ký kết các thoả thuận hợp tác đa dạng với nhiều nước, đối thoại và giải quyết các vấn đề song phương với các đối tác. Các diễn đàn đa phương cũng là nơi chúng ta và các nước gặp gỡ, cộng tác chặt chẽ, trao đổi phối hợp lập trường, ủng hộ lẫn nhau trên những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhau cũng như những vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, qua đó giúp Việt Nam thể hiện là thành viên tin cậy, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, đóng góp củng cố hòa bình, hợp tác và tình hữu nghị với các nước. Đối ngoại đa phương đã cùng với ngoại giao song phương tương tác qua lại, thúc đẩy ngoại giao song phương trong một thế trận ngoại giao toàn diện góp phần quan trọng vào việc xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.

Thứ năm, việc Việt Nam tham gia các thể chế đa phương, gắn kết nền kinh tế đất nước với mạng lưới hợp tác liên kết kinh tế khu vực, quốc tế đã tạo động lực và sức ép thúc đẩy đổi mới, cải cách thể chế trong nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, tiếp thu và làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập theo hướng văn minh, tiến bộ, tuân thủ nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực ứng xử và luật chơi chung và phù hợp với xu thế quốc tế, khu vực.

Thứ sáu, đối ngoại đa phương đã góp phần quan trọng vào nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự đóng góp tích cực, có trách nhiệm và hiệu quả của Việt Nam tại các tổ chức, cơ chế đa phương, việc Việt Nam liên tục đảm nhiệm thành công nhiều vai trò quan trọng tại các diễn đàn đa phương ở mọi cấp độ, lĩnh vực, tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực, thế giới, thể hiện sinh động hình ảnh một Việt Nam văn hiến, yêu hòa bình, cởi mở, hiếu khách, trân trọng tình hữu nghị với các dân tộc, một Việt Nam năng động, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm với bạn bè, với cộng đồng quốc tế đã ngày càng giành được thiện cảm, sự ủng hộ, tin cậy của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vai trò, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc Việt Nam ngày càng được các nước tín nhiệm bầu giữ các chức vụ và vị trí quan trọng tại nhiều tổ chức, cơ chế, diễn đàn đa phương quốc tế khác nhau thời gian qua đã minh chứng uy tín và vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế và chính uy tín, vị thế đó lại gián tiếp và trực tiếp phục vụ ngày càng hiệu quả các mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước.

Thứ bảy, đối ngoại đa phương là công cụ quan trọng giúp Việt Nam có thể cân bằng, hài hòa hóa, giải quyết tốt hơn các mối quan hệ lớn trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, đó là mối quan hệ giữa an ninh, ổn định và phát triển; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; giữa lợi ích quốc gia với trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế; giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế...

 

3. Đối ngoại đa phương của Việt Nam: vượt qua lợi ích dân tộc vị kỷ, “là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”

Bên cạnh việc bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích quốc gia, việc đề cao chủ nghĩa đa phương và thông qua đối ngoại đa phương, Việt Nam cũng thể hiện rõ mình “là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, gắn kết và xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chính đáng của các nước khác và lợi ích chung của cộng đồng toàn cầu. Các văn kiện đại hội X, XI, XII của Đảng, Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và gần đây nhất là Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư về “Nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030” đều khẳng định hoạt động đối ngoại đa phương cần xử lý hài hòa, cân bằng mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia dân tộc với những mối quan tâm và lợi ích chính đáng của các đối tác theo phương châm cùng thắng, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, thể hiện tinh thần “thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chủ động, tích cực đóng góp giải quyết các vấn đề chung của khu vực và quốc tế, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới nhằm ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy xây dựng các thể chế đa phương và trật tự chính trị, kinh tế quốc tế theo hướng minh bạch, công bằng, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ8.

Quá trình tham gia các thể chế hợp tác đa phương, xây dựng và tôn trọng luật chơi chung, tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp giải quyết các thách thức chung cũng là quá trình tăng cường tương tác quốc tế giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về sự phụ thuộc ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia dân tộc, về mối quan hệ gắn bó giữa lợi ích quốc gia với nghĩa vụ quốc tế, từ đó dần định hình, xây dựng giá trị và bản sắc mới của đối ngoại Việt Nam “là đối tác tin cậy của các nước, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, phù hợp với lợi ích quốc gia trong bối cảnh mới cũng như phù hợp với xu hướng tiến bộ của cộng đồng quốc tế, nhân loại. Với việc tự nhận thức và định hình bản sắc mới này của đối ngoại Việt Nam thông qua hội nhập lại tác động trở lại đến tư duy chính sách và hành vi đối ngoại của Việt Nam, theo đó động lực và mục tiêu của việc tham gia và thúc đẩy hợp tác đa phương của Việt Nam ít mang tính vị kỷ hơn, “có tính bền vững hơn, và ít phụ thuộc vào những tính toán vật chất mà cũng liên quan hơn đến vai trò của ý tưởng và các yếu tố phi vật chất khác”9. Phương châm “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” như là bản sắc mới của đối ngoại Việt Nam mang những nội dung sau đây trong chính sách và trong triển khai đối ngoại đa phương của quốc gia:

Một là, Việt Nam bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia của mình nhưng không theo đuổi lợi ích dân tộc hẹp hòi, vị kỷ, làm phương hại đến mối quan tâm và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các quốc gia khác, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi trong hợp tác; tôn trọng và đề cao Hiến chương Liên hợp quốc, các thể chế đa phương khác; tôn trọng luật pháp quốc tế, các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử và các giá trị có tính phổ quát được thừa nhận rộng rãi; tuân thủ nghiêm túc các cam kết quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên.

Hai là, theo đuổi và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của toàn cầu hóa, Việt Nam luôn ủng hộ một nền thương mại mở, chống chủ nghĩa bảo hộ, thúc đẩy hợp tác phát triển giữa các quốc gia, đấu tranh xóa bỏ đói nghèo, bất bình đẳng, hướng tới sự thịnh vượng chung của các quốc gia. Được đánh giá một hình mẫu trong đổi mới, hội nhập và phát triển, là tấm gương tiên phong trong công cuộc xóa đói nghèo, thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc khởi xướng, Việt Nam luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và trợ giúp các quốc gia đang phát triển và còn khó khăn hơn mình thông qua hợp tác song phương cũng như qua các cơ chế đa phương. 

Ba là, phù hợp với vị thế và khả năng của quốc gia, Việt Nam luôn tích cực đóng góp vào các nỗ lực quốc tế giải quyết các vấn đề chung liên quan đến vận mệnh của các quốc gia và của cả nhân loại như hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột quốc tế, chống chạy đua vũ trang và phổ biến vũ khí hủy diệt, giữ gìn môi trường hòa bình, an ninh khu vực, quốc tế, đối phó với các vấn đề toàn cầu cấp bách, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống xuyên quốc gia. Sự tham gia một cách hiệu quả và có trách nhiệm của Việt Nam trong lực lượng giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc ở châu Phi từ năm 2014 đến nay được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam cũng đã nỗ lực đầy trách nhiệm và chu đáo để tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Triều tại Hà Nội (2-2019), qua đó đóng góp ý nghĩa cho tiến trình hòa giải Mỹ-Triều. Nỗ lực và tinh thần trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng khu vực và quốc tế được thể hiện trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 đang diễn ra cũng được cộng đồng quốc tế dành nhiều khen ngợi.

Bốn là, Việt Nam luôn thể hiện chính sách và lập trường kiên định trong việc góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy cải tổ Liên hợp quốc và các cơ chế đa phương, xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, dân chủ và dựa trên luật lệ, qua đó góp phần bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của đa số các quốc gia dân tộc. Tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam đã phối hợp cùng các nước đấu tranh, lên án các biểu hiện của chính trị cường quyền, can thiệp, áp đặt và hăm dọa, các biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, bảo vệ trật tự, luật pháp và công lý quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và sự chính nghĩa của các quốc gia, nhất là các nước nhỏ yếu và đang phát triển trong quan hệ quốc tế. Tại diễn đàn Liên hợp quốc và các diễn đàn đa phương khác, Việt Nam thường xuyên lên án chính sách thù địch của Mỹ đối với Cu Ba và một số nước khác, đòi bãi bỏ bao vây cấm vận của Mỹ đối với những nước này.

Đối ngoại đa phương là một điểm sáng trong công tác đối ngoại của đất nước thời kỳ đổi mới. Qua đó, đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, đồng thời có những đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì vận mệnh chung của nhân loại, vì hòa bình, hữu nghị, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh thế giới ngày càng tùy thuộc lẫn nhau một cách sâu sắc trước tác động của toàn cầu hóa, của khoa học công nghệ; vận mệnh các quốc gia gắn chặt với nhau trước những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống cùng với sự khó lường của chính trị quốc tế hiện nay, các thể chế đa phương càng trở nên có ý nghĩa quan trọng để Việt Nam theo đuổi các mục tiêu đối ngoại của mình. Đảm nhận vai trò kép là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc năm 2020 vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội lớn để Việt Nam nâng đối ngoại đa phương lên một tầm cao mới.

  

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 6/2020

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, T. 65, tr. 209-211

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 83

3. Xem http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr091019080134/nr091019083649/ns140805203450

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 154-156; và Nghị quyết 06-NQ/TW tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-06-NQ-TW-thuc-hien-tien-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-giu-vung-on-dinh-chinh-tri-xa-hoi-2016-332532.aspx

5. Xem tại: http://tuyengiao.vn/dien-dan/van-de-quan-tam/doi-ngoai-da-phuong-gop-phan-day-manh-hoi-nhap-quoc-te-tang-cuong-suc-manh-tong-hop-cua-dat-nuoc-118777

6. Rosecrance, R, (2001), Has Realism Become Cost-Benefit Analysis? A Review Essay, International Security, 26, 132-154

7. Xem phần chính sách đối ngoại các Đại hội Đảng X, XI, XII của Đảng tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/

8. Xem nội dung chính sách đối ngoại các đại hội Đại hội Đảng X, XI, XII của Đảng tại: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/; Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị tại: http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr091019080134/nr091019083649/ns140805203450; Đặng Đình Quý: Chủ nghĩa đa phương trên thế giới và đối ngoại đa phương của Việt Nam, Nxb CTQG-ST, HN 2019, tr. 421

9. Nguyen Vu Tung, Vietnam-ASEAN Cooperation after the Cold War, PhD Thesis, Columbia University 2004, p. 74.