Tóm tắt: Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ năm 2008 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nông thôn mới đạt thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh và xây dựng giai cấp nông dân hiện đại. Trong quá trình đó, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo như thế nào, bằng giải pháp gì để thúc đẩy, hướng tới thực hiện thành công xây dựng nông thôn mới. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2018 - 2020 trên thực tế đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn, bất cập.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo; nông thôn mới

1. Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Các văn kiện Ðại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Ðảng và nhiều chỉ thị, nghị quyết Hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ nói trên đều thể hiện một chiến lược nhất quán đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; từng bước xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới (XDNTM). Đại hội X (2006) của Ðảng nhấn mạnh: “hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững”1. Từ đó, Đảng xác định “Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no ấm, văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị hóa”2 là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của những năm tới.

 Hội nghị Trung ương 7 khóa X, tháng 8-2008 đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” được xem là khởi đầu cho chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM ở Việt Nam. Theo đó, Nghị quyết khẳng định “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”3. “Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”4. Những quan điểm này là sự kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp XDNTM.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 26, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28-10-2008 về “Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện HNTƯ 7 Khóa X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Nghị quyết số 24 đã chính thức cụ thể hóa đường lối phát triển của Đảng thành chương trình hành động, hay nói cách khác, chuyển từ lý thuyết thành thực hiện trên phạm vi cả nước. Nghị quyết số 24 đã cụ thể hóa Nghị quyết số 26 vào 5 mục tiêu Chương trình hành động của Chính phủ, bao gồm: xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn; tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn; hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn; và nâng cao năng lực phòng chống giảm nhẹ thiên tai.

Trên cơ sở Nghị quyết số 24 và Nghị quyết số 26, ngày 16-4-2009, Thủ tướng Chính phủ đưa ra Quyết định 491/QĐ-TTg “Về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về XDNTM”. Theo sau đó là Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 về “Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM”. Ngày 4-6-2010, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định “Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về XDNTM giai đoạn 2010-2020”, trong đó nêu rõ các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đến năm 2020.

Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục chủ trương XDNTM theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trong phát triển nông thôn mới nước ta hiện nay, Đảng xác định: “Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, đi đôi với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”5. Khi triển khai chương trình XDNTM, Đảng nhấn mạnh: “đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Mặt khác, XDNTM văn minh, giàu đẹp phải gắn với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm; thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển”6.

Quá trình 5 năm đầu triển khai Chương trình (2010-2015), mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn lực nhưng Chương trình đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Kết quả cả nước đã huy động được khoảng 851.380 tỷ đồng đầu tư cho Chương trình7, trong đó, ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình, dự án khác) 266.785 tỷ đồng (31,34%), tín dụng 434.950 tỷ đồng (51%), doanh nghiệp 42.198 tỷ đồng (4,9%), người dân và cộng đồng đóng góp 107.447 tỷ đồng (12,62%)8; tính đến hết tháng 11-2015, cả nước có 1.298 xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM. Đặc biệt, số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên (xuất phát điểm dưới 3 tiêu chí, nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là 183 xã9. Cũng tính đến hết tháng 11-2015, đã có 11 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Đáng chú ý, mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010)10.

Xét trên bình diện chung, nông thôn mới đã trở thành hiện thực với những thành quả cụ thể: Chương trình đã làm thay đổi nhận thức của đa số người dân, tham gia vào XDNTM. XDNTM đã trở thành phong trào sôi động khắp cả nước. Cả nước đã hình thành Bộ máy chỉ đạo và tham mưu giúp việc đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp; hình thành được cơ bản Bộ tiêu chí, hệ thống cơ chế, chính sách để vận hành Chương trình. Nhiều địa phương đã cụ thể hóa các chính sách của Trung ương, chủ động ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện của địa phương; Hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt nhiều vùng nông thôn. Điều kiện sống  về vật chất và tinh thần của số lượng lớn dân cư nông thôn được nâng cao rõ rệt.

Bên cạnh những thành công, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục, cụ thể: chương trình chưa đạt được mục tiêu tới năm 2015 có 20% xã đạt tiêu chí như Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X đề ra; các xã chỉ mới tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, các nội dung về phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức; nhiều địa phương chưa chú trọng đúng mức thực hiện các nội dung ở cấp thôn và hộ gia đình; có sự chênh lệch lớn về kết quả thực hiện giữa các vùng, miền (số xã đạt tiêu chuẩn NTM ở Đông Nam Bộ là 34%, Đồng bằng sông Hồng 23,5% thì miền núi phía Bắc và Tây Nguyên mới chỉ đạt khoảng 7%; vẫn còn một số địa phương chạy theo thành tích nên có biểu hiện huy động quá sức dân/nợ đọng cơ bản không có khả năng trả11.

Năm 2015 được coi là giai đoạn 2 của chương trình XDNTM, ngay từ đầu Đảng đã lãnh đạo quyết liệt bằng việc thông qua Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12-11-2015 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 nhằm tiếp tục củng cố các mục tiêu của chương trình quốc gia XDNTM, ngân sách và nguyên tắc phân bổ ngân sách cho thực hiện chương trình trong dó ưu tiên nguồn lực cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu,... đồng thời đặt ra mục tiêu đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50% và không còn xã đạt dưới 5 tiêu chí. Để góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12-11-2015 của Quốc hội. Tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với XDNTM trong giai đoạn 2016-2020 là “tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân”12. Theo đó, cần “tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2020 khoảng 40 - 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới”13. Đồng thời “rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc thù từng vùng. Quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán tại địa bàn miền núi, đồng bào dân tộc. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế-xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn”14.

Tại Đại hội XII của Đảng, bên cạnh việc đánh giá tổng quát những kết quả đạt được, Đảng xác định xây dựng nông thôn mới còn có các hạn chế, cụ thể: “cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả đạt được chưa đồng bộ, chưa đạt mục tiêu đề ra; nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu; hợp tác liên kết trong sản xuất nông nghiệp phát triển còn chậm, kinh tế tập thể hoạt động còn lúng túng. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, thiếu bền vững, hiệu quả chưa cao, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của người dân còn thấp”15

 2. Một số kết quả về xây dựng nông thôn mới

Từ những chủ trương đúng đắn của Đảng, giai đoạn 2 (2016-2020) của Chương trình Mục tiêu quốc gia XDNTM, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều địa phương trên cả nước đã có những cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tế; đồng thời khắc phục được những hạn chế của giai đoạn 2010-2015... Cho đến nay, chương trình đã đạt nhiều kết quả quan trọng, diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc16, cụ thể:

Tính đến tháng 9-2019, tổng nguồn lực huy động thực hiện Chương trình khoảng 1.567.091 tỷ đồng17; đến hết năm 2019 có 545 số xã và 111 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành trước hạn gần 2 năm so với mục tiêu Chiến lược đề ra18 (đặc biệt, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Nam Định đã có 100% xã và 100% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ XDNTM, hiện nay đang hoàn thiện thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ công nhận tỉnh hoàn thành XDNTM; về quy hoạch có 8.877 xã hoàn thành tiêu chí về Quy hoạch, đạt 99,7% (tăng 71,4% so với năm 2010 và cơ bản hoàn thành mục tiêu 5 năm 2016-2020). Xác định quy hoạch là cơ sở quan trọng để XDNTM, phải đi trước một bước, đến nay cả nước cơ bản đã hoàn thành quy hoạch NTM cấp xã (chỉ còn 25 xã chưa có quy hoạch); các tiêu chí về hạ tầng kinh tế-xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hóa-xã hội-môi trường, hệ thống chính trị đều đạt và vượt so mới mục tiêu 5 năm giai đoạn 2016-202019. Tỷ trọng lao động trong nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tổng số lao động giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 33,5% năm 2020. Nông nghiệp tập trung vào sản xuất hàng hóa theo hướng hiện đại, giá trị tăng cao, bền vững, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và hình thành nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ20. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, giai đoạn này vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, cụ thể: Kết quả XDNTM của một số địa phương chưa thực sự vững bền, nhất là về sinh kế và nâng cao thu nhập người dân21; còn khoảng cách chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền; nông thôn phát triển chưa đồng đều, kết nối kinh tế nông thôn-đô thị còn yếu; cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, một số nơi xuất hiện tình trạng bê tông hóa nông thôn; vấn đề ô nhiễm môi trường ở một số địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, trong đó có ô nhiễm nguồn nước ở các tuyến sông, kênh, mương; sự gắn kết giữa XDNTM và cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa chặt chẽ; chất lượng đạt chuẩn và công tác duy trì bền vững kết quả sau đạt chuẩn còn nhiều hạn chế; nhiều địa phương đạt chuẩn theo bộ tiêu chí NTM ở giai đoạn trước, đến nay chưa đáp ứng được một số yêu cầu của bộ tiêu chí mới; xác định Chương trình Mục tiêu quốc gia  XDNTM là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc; việc hệ thống hóa tổ chức bộ máy vận hành chưa thực sự thống nhất và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương22.

3. Một số định hướng và giải pháp về xây dựng nông thôn mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Xuất phát từ những hạn chế về XDNTM mới trong giai đoạn trước, trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIII, Đảng khẳng định “Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”23. Có thể thấy, nội dung XDNTM theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững là sự phát triển cả về mặt lý luận và thực tiễn hơn so với chủ trương “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công công nghiệp hóa, nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông mới”24 tại Đại hội XII. Để thực hiện được mục tiêu này, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập như trong Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ và từ thực tiễn tình hình Đảng ta yêu cầu “Thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản”25. Muốn vậy Đảng yêu cầu, cần “tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, kết nối chặt chẽ XDNTM với quá trình đô thị hóa. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị; tập trung xử lý ô nhiễm môi trường, nhất là rác thải, nước thải”26.

Trong Dự thảo Các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới vẫn là một trong các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu, quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030. Định hướng chương trình quốc gia XDNTM theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, phấn đấu đến năm 2030, 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 40% đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng nông thôn mới27. Theo đó, Đảng xác định cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, lấy thay đổi tư duy, nếp sống, năng lực của người dân làm mục tiêu; cư dân nông thôn làm chủ thể; cộng đồng, thôn, bản là đơn vị để đánh giá. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, XDNTM, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp28.

Thứ hai, phát triển kinh tế nông thôn cần gắn với đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình tăng trưởng. Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ, phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu29.

Thứ ba, tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, kết nối chặt chẽ XDNTM với quá trình đô thị hóa30. Tại các khu vực ven các đô thị lớn, các vùng đồng bằng đông dân cần nâng cao chất lượng tiêu chí XDNTM văn minh, xanh, sạch, đẹp, từng bước tiệm cận điều kiện về hạ tầng và dịch vụ của các đô thị. Gắn chặt XDNTM với đẩy nhanh đô thị hóa, phát triển hệ thống đô thị nhỏ ở địa bàn nông thôn, tiếp nhận dần các chức năng kinh tế của các đô thị lớn. Tại các vùng nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng kinh tế nông nghiệp,...

Thứ tư, tạo điều kiện để tăng trưởng toàn diện, tăng thu nhập, giải quyết tốt hơn vấn đề an ninh dinh dưỡng và an ninh lương thực đối với nhóm nghèo và cận nghèo, đặc biệt tại các vùng khó khăn. Tạo đột phá trong phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn để phát huy lợi thế của nông nghiệp, tạo việc làm ổn định, bền vững cho cư dân nông thôn.

Thứ năm, biến văn hóa thành động lực mới cho XDNTM: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của gia đình, cộng đồng nông thôn, giữ gìn kiến trúc cảnh quan nông thôn, xây dựng cảnh quan nông thôn trên cơ sở nền tảng phát huy mối quan hệ làng xã. Đa dạng hóa các thiết chế văn hóa ở nông thôn, bảo đảm lựa chọn và sử dụng hiệu quả nhất các thiết chế văn hóa truyền thống và thiết chế văn hóa mới. 

Thứ sáu, XDNTM cần gắn chặt với việc tăng cường phát triển bền vững và bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn: Phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa phải không làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, đến môi trường sinh sống và kinh tế xã hội của cư dân nông thôn. Nâng cao chất lượng quy hoạch cảnh nông thôn theo hướng xanh - sạch và bền vững: Lấy quy hoạch cảnh quan nông thôn làm nền tảng trong XDNTM, xây dựng cảnh quan nông thôn mới vừa mang tính sinh thái, vừa đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống.

Quan điểm của Đảng về XDNTM là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để đi đến kết quả cuối cùng là giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ trở thành những người lao động mới của xã hội chủ nghĩa. Do đó, Đảng tiếp tục khẳng định thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM vẫn là một trong các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu, quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2030.

Công cuộc XDNTM giai đoạn 2008-2020 đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, đời sống người nông dân không ngừng được cải thiện, nông nghiệp luôn là trụ đỡ để kinh tế nước ta vượt qua những khó khăn, đặc biệt là thời điểm chịu ảnh hưởng tác động chưa từng có từ đại dịch COVID-19. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM vẫn cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, nhằm phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 10/2020

* Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Trường Sĩ quan Chính trị - Bộ Quốc phòng

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2016, T. 65, tr. 268 - 269, 272

3, 4. Sđd, T. 67, tr. 827, 828

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 39, 197

7, 17, 19, 22. Ban Chỉ đạo TW các chương trình MTQG giai đoạn 2016-2020: Dự thảo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, tr. 13, 13, 16-18, 37-38

8, 9, 10, 11. http://dangcongsan.vn/khuyen-nong-huong-toi-su-phat-trien-ben-vung/dien-hinh-nhan-to-moi/-xay-dung-nong-thon-moi--nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-giai-doan-20102015-366308.html (truy cập ngày 1-1-2020)

12, 13, 14, 15, 24. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 281, 283, 283-284, 253, 77

16, 18, 20, 21, 23, 25,  26,  27, 28, 29, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Nhà in Tiến bộ, H, 2020, tr. 52,  52, 50,  56,  107, 75,  52, 107, 75, 75, 52, 52, 50, 56, 75, 31, 18, 75.