Tóm tắt: Cải cách nền hành chính quốc gia là một yêu cầu cấp bách, một nhiệm vụ trọng yếu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm 2011- 2021, Đảng tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, phục vụ nhân dân và đạt được một số thành tựu quan trọng
Từ khóa: Đảng cộng sản Việt Nam; cải cách hành chính nhà nước; 2011-2021
1. Chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo của Nhà nước
Đến năm 2011, công tác cải cách hành chính (CCHC) tiếp tục được chú trọng và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên chưa đạt so với yêu cầu đặt ra. Đại hội XI (2011) của Đảng cho rằng: “Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm”1. Trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đại hội XI của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính”2; “đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ”3 Đại hội cho rằng CCHC là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của ba đột phá chiến lược. Đại hội chủ trương: “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và cải cách hành chính”; “bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân”; “tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí”; “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục”;“đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp”; “thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”4.
Đại hội xác định cụ thể: “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”5; “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia… Xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất”6.
Về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Đại hội nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”7. Về thủ tục hành chính, Đại hội yêu cầu: “giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước các cấp”8.
Đại hội XII của Đảng (2016), đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”9. Đại hội yêu cầu: “Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm công vụ xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử”10. Đây là nội dung trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh CCHC, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 8-11-2011 “Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020”, với mục tiêu: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ các thủ tục hành chính; Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”11.
Nghị quyết đã cụ thể hóa các nội dung của CCHC, đó là: 1) cải cách thể chế hành chính, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. 2) xây dựng và hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, công khai hoá, minh bạch hoá các thủ tục hành chính; nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 3) cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước thông qua tiến hành rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế từ cấp Trung ương đến các cấp chính quyền địa phương, đổi mới phương thức làm việc, nâng cao chất lượng của các cơ quan tổ chức hành chính nhà nước nhất là giáo dục, y tế… 4) xây dựng và nâng cao đội ngũ cán bộ công chức viên có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. 5) cải cách tài chính công đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp nhất là chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. 6) hiện đại hóa hành chính, chính phủ điện tử tiến tới chính phủ số, thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng các cơ quan hành chính nhằm thực hiện chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2010-202012.
Chính phủ còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cụ thể các nội dung CCHC nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, hiệu lực, hiệu quả như: Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14-10-2015 của Chính phủ “về Chính phủ điện tử”; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP, ngày 8-4-2020 “về triển khai thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử”; Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09-04-2020 của Chính phủ “quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước”,...
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 30c-NQ/CP “về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 đến năm 2020”, Đại hội XIII (2021) của Đảng xác định: “tiếp tục xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch vững mạnh, công khai minh bạch”13. Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”14, nền hành chính nhà nước hướng tới là nền hành chính “phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”15. Đại hội cũng yêu cầu “tiếp tục cắt giảm thực chất thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; kiểm soát chặt việc quy định các thủ tục hành chính mới”16. Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, đó là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự nghiệp phát triển của đất nước; tăng cường công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức tục đẩy mạnh, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội; tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa hành chính quốc gia”17. Như vậy, đến Đại hôi XIII của Đảng tư tưởng xây dựng nền hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân đã được hình thành một cách đầy đủ và hoàn thiện.
Quán triệt thực hiện chủ trương của Đại hội XIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15-7-2021 “về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030” xác định CCHC là một trong những đột phá phát triển đất nước; gắn CCHC đồng bộ với cải cách lập pháp, tư pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Một số kết quả
Công tác CCHC nhà nước từ năm 2011 đến năm 2021 đã đạt được một số kết quả sau:
Một là, xây dựng và triển khai thi hành thực hiện Hiến pháp năm 2013, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hơn 80 luật, pháp lệnh; Chính phủ ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Công tác rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng đẩy mạnh, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu, đề xuất giải pháp sửa đổi, bổ sung ngay để tháo gỡ 111 vấn đề đang gây vướng mắc, bất cập được quy định tại 29 luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của 10 bộ18. Thể chế môi trường đầu tư kinh doanh đã được hoàn thiện và bước đầu tiệm cận với thông lệ quốc tế; môi trường đầu tư kinh doanh chuyển biến rõ nét; quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện, vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng cao.
Hai là, về thủ tục hành chính điều kiện kinh doanh và hoạt động kiểm tra chuyên ngành; phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính thường xuyên được rà soát để cắt giảm và đơn giản hóa, đem lại nhiều kết quả tích cực. Việc đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính theo hướng số hóa, không phụ thuộc vào địa giới hành chính được chú trọng, bước đầu có kết quả. Giai đoạn 2011-2021, cải cách thủ tục hành chính không chỉ là vấn đề công khai, minh bạch thủ tục hành chính còn đi sâu vào việc thay đổi các quy định nội dung thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện; danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện giảm từ 267 ngành năm 2014 xuống còn 243 ngành năm 202019.
Ba là, xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước qua thực tiễn triển khai rà soát, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhà nước; phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương được hoàn thiện, thống nhất; việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung ương đến địa phương đã đạt được kết quả cao trong năm 2021, kết quả thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và tương đương có 1.173 sở, giảm 7 tổ chức; tổ chức bên trong cơ quan chuyên môn cấp sở có 8.122, giảm 1.648 tổ chức (giảm 1.440 phòng thuộc sở, giảm 208 chi cục thuộc sở); cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện có 8.490 phòng, giảm 451 phòng. Đồng thời, tiếp tục rà soát sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập và đẩy mạnh tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tính đến cuối năm 2021, số lượng đơn vị sự nghiệp công lập giảm 12,35% so với năm 201520. Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo các nghị quyết của Quốc hội tiếp tục đạt được những kết quả tích cực: giai đoạn 2019-2021 đã giảm được 08 đơn vị hành chính cấp huyện (từ 713 xuống còn 705 huyện) và 561 đơn vị hành chính cấp xã (từ 11.160 xuống còn 10.599 xã).
Bốn là, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm hoàn thiện, đảm bảo thống nhất, liên thông giữa quy định của Đảng với pháp luật của Nhà nước. Thể chế về công vụ, công chức, viên chức được bổ sung, hoàn thiện, đổi mới trên cơ sở Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện nghiêm; việc bố trí công chức bảo đảm theo vị trí việc làm và tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức tương ứng với bản mô tả công việc, khung năng lực của từng vị trí từng bước được thực hiện. Một số nội dung cải cách, đổi mới bước đầu đạt kết quả, như: tuyển dụng công chức có ứng dụng công nghệ thông tin; thu hút những người có tài năng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý. Công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức có sự đổi mới; đã rà soát để cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng theo yêu cầu. Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức đã được khai trương, đi vào hoạt động.
Năm là, thể chế, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tài chính công, quản lý nợ công, sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp, quản lý tài chính, ngân sách, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ có nhiều chuyển biến rõ nét; việc thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập đạt được những kết quả tích cực.
Sáu là, đẩy mạnh, nâng cao phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số từng bước được hoàn thiện, hiện đại hoá hành chính góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, Trục liên thông văn bản quốc gia, Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ…Tính đến ngày 15-12-2021, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 (trên tổng số dịch vụ công) cả nước đạt 68,07%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 (trên tổng số dịch vụ công trực tuyến) đạt 96%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 có phát sinh hồ sơ (trên tổng số dịch vụ công đang cung cấp trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4) đạt 36,47%. Tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 (trên tổng số hồ sơ thủ tục hành chính) đạt 29,80%21.
Bảy là, thông qua sự chỉ đạo sâu sát, kiên quyết của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phát huy dân chủ của người dân trong xây dựng, hoạch định thể chế, chính sách; cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử; về đổi mới cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, tổ chức và hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện đã tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong việc tiếp cận, giải quyết thủ tục hành chính. Các chỉ số đánh giá cải cách hành chinh như: PAR INDEX, SIPAS, PAPI đã được triển khai thực hiện, nhằm đánh giá chất lượng CCHC, đây được coi là điểm nổi bật trong sự chỉ đạo điều hành của Đảng và Nhà nước lãnh đạo thực hiện CCHC.
Trải qua 10 năm (2011-2021), với 3 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc (XI, XII, XIII), Đảng đã nhất quán ban hành nhiều chủ trương về CCHC nhà nước. Các cơ quan Nhà nước ban hành nhiều chính sách cụ thể liên quan trực tiếp tới công tác CCHC nhà nước. Điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong lãnh đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước; coi đây là điều kiện tiên quyết, yếu tố bảo đảm cho sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Qua đó, cải cách hành chính nhà nước được triển khai thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ trên tất cả lĩnh vực, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào những thành tựu chung của đất nước.
Ngày gửi: 26-9-2024; ngày thẩm định, đánh giá: 30-9-2024; ngày duyệt đăng: 25-10-2024
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 172, 250, 249141,141,142 143,143
21. Đảng ủy Bộ Nội vụ: “Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020”, ngày 9-1-2020, tr.12, lưu tại Văn phòng Đảng ủy Bộ Nội vụ.