Tóm tắt: Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đánh ta trên mọi lĩnh vực. Về chính trị, chúng tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, ngăn ngừa đồng bào tôn giáo ủng hộ kháng chiến; dùng lực lượng dụ dỗ, mua chuộc làm chỉ điểm, phá cơ sở cách mạng, hòng dập tắt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đập tan âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch, trong những năm kháng chiến, Đảng đã luôn chú trọng lãnh đạo công tác vận động tôn giáo.

Từ khóa: Công tác tôn giáo; kháng chiến chống thực dân Pháp

1. Quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng về công tác tôn giáo

Từ sau khi giành được độc lập cho đến ngày kháng chiến thắng lợi, trong rất nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với tôn giáo. Phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ xác định 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó, nhiệm vụ thứ 6 nêu rõ quan điểm: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”1.

Hội nghị cán bộ Trung ương (tháng 4-1947) xác định “vận động đồng bào theo các đạo là một nhiệm vụ trọng yếu, bậc nhất trong công tác dân vận”2. Hội nghị chỉ rõ phần lớn giáo dân là những người yêu nước, đồng thời chỉ ra nguyên nhân vì sao giáo dân sợ cộng tác với Việt Minh và Chính phủ3. Hội nghị xác định nội dung, phương pháp vận động: Vạch rõ âm mưu gian ác của địch; chỉ rõ tính chất, mục đích của Việt Minh và Chính phủ; dùng tài liệu xác thực về tội ác của địch để tuyên truyền; dùng chính những điều dạy trong kinh thánh để khơi gợi lòng yêu nước của đồng bào; đưa những cha cố cảm tình vào Ủy ban kháng chiến, Ban Chấp hành Hội Liên Việt các địa phương; đào tạo cán bộ người Công giáo...

Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng (tháng 1-1948) chủ trương lập ra một số hình thức tổ chức để thông qua đó thực hiện tuyên truyền, vận động: “Hội cầu nguyện cho các chiến sĩ”, “Hội cầu nguyện cho đất nước độc lập”.

Hội nghị toàn quốc lần thứ ba (từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950) yêu cầu cán bộ phải nắm vững chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ; tránh bệnh chủ quan, đánh giá thấp âm mưu của địch, đánh giá quá cao thành tích vận động của ta. Hội nghị xúc tiến việc chấn chỉnh, phát triển các đoàn thể quần chúng tôn giáo, đẩy mạnh các hoạt động lương, giáo đoàn kết4.

Đại hội lần thứ II (tháng 2-1951) của Đảng, trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo mà phản quốc”5. Tuyên ngôn Đảng Lao động Việt Nam tuyên bố: “Tín đồ các tôn giáo cần được tín ngưỡng tự do”6.

Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khoá II (tháng 1-1953) nhấn mạnh cần phải mở một chiến dịch tuyên truyền, vạch rõ âm mưu “Dùng người Việt, đánh người Việt”, “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch; làm cho các tín đồ nhận rõ chính sách thâm độc của giặc, phân biệt rõ bạn, thù; tin tưởng vào chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ; ra sức lôi kéo, đoàn kết với các cha cố, sư sãi tốt7.

2. Một số kết quả đạt được

Với quan điểm, chủ trương đúng đắn đối với tôn giáo và tinh thần quyết tâm của đội ngũ cán bộ dân vận, trong 9 năm kháng chiến, công tác tôn giáo vận của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, Đảng đã vận động, thuyết phục được một số nhân vật có uy tín trong các tôn giáo trực tiếp tham gia kháng chiến, tham gia chính quyền hoặc đứng đầu các tổ chức cứu quốc

Nhờ được tuyên truyền, giáo dục, nhiều chức sắc có uy tín trong các tôn giáo đã trực tiếp đứng trong hàng ngũ, tham gia vào các cơ quan hoặc các tổ chức quan trọng của chính quyền kháng chiến: Giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của Chính phủ lâm thời8; linh mục Nguyễn Văn Huy - Phó Chủ tịch Hội Liên Việt tỉnh Cần Thơ; Hội trưởng Cao Đài Cứu Quốc 12 phái hiệp nhất Cao Triều Phát và linh mục Nguyễn Bá Sang làm cố vấn Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ. Các linh mục Nguyễn Bá Luật, Nguyễn Bá Sang, Nguyễn Bá Kính, Lê Đình Hiến, Hồ Thành Biên, Võ Thành Trinh, Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Hiến Lễ đã xung phong ra vùng căn cứ kháng chiến; trong đó, linh mục Nguyễn Bá Kính làm tuyên úy của Vệ quốc đoàn9. Linh mục Lê Thành Phiên-đại diện của Thanh niên Công giáo được bầu vào BCH Liên đoàn Thanh niên Việt Nam Nam Bộ10. Hòa Thượng Thích Minh Nguyệt làm Chánh Hội trưởng Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ.

Bên cạnh đó, rất nhiều trí thức các tôn giáo tham gia, giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền: luật sư Phạm Ngọc Thuần-Phó Chủ tịch, quyền Chủ tịch UBKCHC Nam Bộ, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh-Ủy viên UBKCHC Nam Bộ, Giám đốc Sở Tài chính Nam Bộ; Nguyễn Tự Do-Ủy viên xã hội UBKCHC Nam Bộ, Phạm Ngọc Thảo-Trưởng phòng mật vụ Nam Bộ11, luật sư Thái Văn Lung-đại biểu Quốc hội khóa I, chỉ huy lực lượng vũ trang huyện Thủ Đức (Gia Định), Nguyễn Mạnh Hà-Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế của Chính phủ lâm thời.

Những nhân vật tiêu biểu, có uy tín trong các tôn giáo đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Đảng.

Thứ hai, Đảng đã vận động được đông đảo các tín đồ tham gia kháng chiến.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các tôn giáo ở mọi miền đất nước đều hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Ở Liên khu III, trong cuộc vận động “tuần lễ vàng”, giám mục Hồ Ngọc Cẩn (Toà Giám mục Bùi Chu, tỉnh Nam Định) đã ủng hộ Chính phủ một dây đeo tượng Thánh bằng vàng. Trong “tuần lễ đồng” ở Nam Bộ, Chùa Hộ Linh (Cần Thơ) hiến một đại hồng chung cho Ủy ban kháng chiến Nam Bộ để đúc súng đạn. Những ngày đầu kháng chiến, hơn 3 vạn đại biểu Công giáo các tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ viết đơn xin ủng hộ miền Nam kháng chiến12. Ngày 27-2-1947, 24 nhà sư của Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Nam Định xung phong tòng quân13. Năm 1948, Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thái Bình với 700 hội viên đã quyên góp, ủng hộ nhiều tiền, thuốc men, quần áo cho bộ đội14. Đồng bào các tôn giáo trên cả nước còn tích cực mua công phiếu kháng chiến; quyên góp giúp đỡ bộ đội, thương binh; bán, tặng thóc, trâu bò cho Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân.

Ở Nam Bộ, ngoài kêu gọi các tín đồ quyên góp vật chất gửi ra chiến khu, Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ, Hội Phật giáo cứu quốc Nam Bộ đã vận động được nhiều tín đồ dùng nhà cửa của mình làm trạm giao liên, nơi họp bàn, nuôi giấu cán bộ, cất giấu vũ khí; thanh niên xung phong tòng quân; vận động con em bỏ hàng ngũ địch về nhà hoặc làm nội ứng, binh vận. Những năm cuối của cuộc kháng chiến, đồng bào các tôn giáo hăng hái đóng thuế nông nghiệp, đi dân công phục vụ các chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Cùng với đóng góp sức người, sức của; đồng bào các tôn giáo còn trực tiếp tham gia đánh Pháp, đấu tranh kinh tế, chính trị. Năm 1950, hàng vạn giáo dân tỉnh Nam Định đấu tranh chống bọn phản động đội lốt thầy tu. Năm 1952, hàng trăm tu sĩ, giáo sĩ ở Thái Bình đấu tranh đòi địch sửa cống Trà Linh. Hội các mẹ, vợ ngụy binh, vệ sĩ người Công giáo nhiều tỉnh đã tổ chức kéo lên đồn bốt địch đấu tranh đòi chồng, con. Binh lính người Công giáo ở các vùng tạm bị chiếm nổi dậy binh biến, đòi giải ngũ... Chỉ tính riêng năm 1951, 1.664 vệ sĩ ở tỉnh tỉnh Thái Bình bỏ ngũ, tiểu đoàn vệ sĩ Trần Hưng Đạo tan rã hoàn toàn15. Năm 1952, ở Khu Tả Ngạn sông Hồng, một số ngụy binh làm nội ứng, bỏ trốn về nhà16. Năm 1953, hàng ngàn lá đơn với trên 10.000 chữ ký của đồng bào lương và đồng bào Công giáo đòi xử tử tên trưởng đồn Phương Xá (Thái Bình)17. Đông - Xuân 1953-1954, tiểu đoàn du kích xã Hồng Phong (Nghĩa Hưng, Nam Định) anh dũng đánh địch trên 100 trận18. Nông dân Công giáo ở các xứ đạo ở Quỳnh Lang, Sa Cát, Cao Mộc, Bạch Long, Trung Đồng, Thủ Chính (Thái Bình) cùng đồng bào bên lương đấu tranh đòi địa chủ, phú nông giảm tô. Nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế-Chính phủ lâm thời Nguyễn Mạnh Hà, mặc dù phải sống trong vùng địch tạm chiếm nhưng ông vẫn tích cực hoạt động, tác động đến những người Pháp, Chính phủ Pháp, đòi họ phải đình chiến và thương lượng với Chính phủ Việt Nam19

Ở Nam Bộ, cuối năm 1946, đầu 1947, số thanh niên Công giáo tham gia kháng chiến lên tới hàng nghìn người20. Miền Tây Nam Bộ, đồng bào các tôn giáo đã phối hợp với bộ đội đánh địch nhiều trận: Trận phá khu tự trị Công giáo Thới Lai (Ô Môn) do linh mục Nguyễn Văn Huy chỉ huy21, các trận ở Tầm Vu (Cần Thơ)... Trong các trận đánh ở Tầm Vu, phải kể đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304 Huỳnh Văn Trí, lấy tư cách Sư thúc đạo Hòa Hảo đã cùng trung đoàn về Long Châu Hà trừng trị những phần tử phản quốc; hướng các chức sắc, tín đồ theo con đường chính nghĩa chống xâm lược22. Các họ đạo Nhơn Hòa Lập (ở Đồng Tháp Mười), Mỹ Lương, Cù Lao Giêng (Long Xuyên), Huyện Sử, Bàu Ráng, Kinh Cùng (Bạc Liêu), Trà Cú Cạn (Sóc Trăng)... lập nhiều thành tích trong kháng chiến23.

Thứ ba, nhiều chức sắc, tín đồ đã nêu tấm gương sáng trên các lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, đóng góp cho kháng chiến

Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đồng bào theo đạo có nhiều đóng góp, cống hiến. Trên một số lĩnh vực, xuất hiện những tấm gương tiêu biểu: cụ Hoàng Hanh, năm 1948, trở thành chiến sĩ thi đua trong nông nghiệp, năm 1952, được Chính phủ phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động nông nghiệp đầu tiên ở Việt Nam. Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, mặc dù bị địch điều đến vùng hẻo lánh nhưng vẫn tìm cách giúp đỡ cho các linh mục, tu sĩ và đạo hữu tham gia kháng chiến24. Trong chiến đấu, một số chức sắc, tín đồ đã hy sinh anh dũng: Linh mục Nguyễn Bá Luật, Nguyễn Bá Sang, Nguyễn Bá Kính, Lê Đình Hiển, Hòa thượng Thích Trí Quang25 và trên 100 chức sắc, thanh niên Đạo Đức Đoàn26. Tinh thần kháng chiến của Phái Chơn Minh Đạo do cụ Cao Triều Phát đứng đầu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi “phái Cao Đài do cụ Cao Triều Phát lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến. Tổ quốc và Chính phủ sẽ ghi nhớ công những người con trung thành”27.

Với chủ trương, đường lối lãnh đạo công tác tôn giáo vận đúng đắn, Đảng đã đoàn kết được đông đảo đồng bào các tôn giáo hướng theo kháng chiến; đập tan âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của địch. Đồng bào các tôn giáo đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

3.  Một số nhận xét

Đặc điểm tình hình

Thực tiễn công tác tôn giáo vận của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy, thời kỳ này, Việt Nam có một số tôn giáo lớn: Công giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo với khoảng 3 triệu tín đồ28. Ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Công giáo, Phật giáo là chủ yếu; ngược lại, ở Nam Bộ là đạo Cao Đài và Hòa Hảo.

Đại đa số tín đồ xuất thân từ nông dân, giàu lòng yêu nước; có những đóng góp trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền những năm 1930-1945.

Đồng bào các tôn giáo chủ yếu nằm trong vùng địch tạm chiếm; trình độ văn hóa, nhận thức hết sức hạn chế. Bên cạnh tuyệt đại bộ phận các tín đồ yêu nước, có một số phần tử chức sắc phản động, bị Pháp mua chuộc đã tìm cách lôi kéo, kích động các tín đồ chống lại kháng chiến29.

Những thuận lợi, khó khăn

Thuận lợi, đa số đồng bào tôn giáo có truyền thống yêu nước, đoàn kết, chống giặc ngoại xâm. Trải qua thực tiễn những năm đấu tranh giành chính quyền, đồng bào càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẵn sàng đóng góp, tham gia kháng chiến. Thêm vào đó, thường ngày, các tín đồ được học từ Kinh thánh, Kinh Phật những điều hướng thiện. Điều đó đã giúp cho các tín đồ biết phân biệt chính nghĩa, phi nghĩa, mong muốn làm nhiều việc có ích cho đất nước.

Khó khăn, phần lớn đồng bào các tôn giáo nằm trong vùng tạm bị chiếm nên thường xuyên bị địch tuyên truyền xuyên tạc, đàn áp, khống chế, mua chuộc, bưng bít thông tin. Bên cạnh đó, sự kiểm soát gắt gao của địch, trình độ nhận thức của đồng bào là những cản trở lớn đối với công tác tuyên truyền, vận động của ta. Niềm tin tôn giáo của đồng bào vừa là thuận lợi vừa là khó khăn đối với công tác tôn giáo vận nếu ta không có phương pháp tuyên truyền, vận động phù hợp.

Những thành công, hạn chế

Thành công quan trọng đầu tiên là Đảng đã sớm đưa ra và nhất quán quan điểm đúng đắn đối với tôn giáo: “Tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết”; đồng bào các tôn giáo được đối xử bình đẳng, các chức sắc tôn giáo được phép truyền đạo nhưng không được lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng; đồng bào các tôn giáo phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với kháng chiến. Quan điểm đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng thời kỳ này; phù hợp với ý nguyện của đồng bào các tôn giáo cũng như toàn dân; được đông đảo các tín đồ, chức sắc tôn giáo ủng hộ.

Thứ hai, trên cơ sở quan điểm nhất quán đối với tôn giáo, Đảng đề ra chủ trương, chính sách vận động tôn giáo đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc kháng chiến, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và đặc điểm của đồng bào các tôn giáo. Các chủ trương của Đảng luôn đề cao vai trò của đồng bào theo đạo, quan tâm chăm lo đời sống cho đồng bào; xác định rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo vận; nghiêm khắc phê bình, kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và những ưu, khuyết điểm của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vận; đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả. 

Thứ ba, trong triển khai, chỉ đạo thực hiện, phần lớn các cấp bộ Đảng, chính quyền đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng vào thực tiễn địa phương, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, vận động được xác định dựa trên cơ sở đặc điểm của đồng bào theo đạo cũng như đặc điểm của vùng đồng bào các tôn giáo sinh sống; đáp ứng yêu cầu, mục đích của cuộc kháng chiến.

Nội dung tuyên truyền có trọng điểm, thiết thực: Tuyên truyền, giải thích quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đối với tôn giáo; tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến; tố cáo âm mưu, tội ác của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và của những chức sắc tôn giáo phản động.

Hình thức tuyên truyền, Đảng xác định thực hiện phương châm bí mật kết hợp với công khai, bán công khai thông qua việc lập các tổ chức từ thấp tới cao: tổ chức “Hội cầu nguyện cho các chiến sĩ”, “Hội cầu nguyện cho đất nước được độc lập”, các đoàn thể cứu quốc (Hội Công giáo cứu quốc, Hội Phật Giáo cứu quốc, Hội Cao Đài cứu quốc...), các hội nghị Công giáo kháng chiến; vận động đấu tranh kinh tế, chính trị, chiến tranh du kích.

Phương pháp vận động hết sức phong phú, linh hoạt: Nói chuyện, tâm sự; bàn luận về những điều Kinh Thánh, Kinh Phật dạy; quan tâm chăm sóc đời sống những gia đình theo đạo khó khăn; tranh thủ những chức sắc tôn giáo yêu nước hay trung lập (đưa họ vào Ban Chấp hành Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Ban Chấp hành Hội Liên Việt hoặc “Hội ủng hộ kháng chiến”); dùng các khẩu hiệu phân hóa “chỉ trị bọn phản quốc chứ không chống Công giáo”, “đồng bào Công giáo giúp Chính phủ trừng trị bọn phản quốc”30, “Giặc Pháp và Việt gian là kẻ thù, lương-giáo là ruột thịt”31,... 

Những thành công trong công tác vận động tôn giáo đã giúp cho Đảng quy tụ được đông đảo đồng bào theo đạo góp sức và đồng hành cùng cả nước cho tới ngày kháng chiến thắng lợi.

Thành công trong công tác tôn giáo vận của Đảng thời kỳ này là cơ bản. Tuy nhiên, công tác vận động tôn giáo vẫn còn một số hạn chế.

Một là, một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm chỉ đạo triển khai, xây dựng kế hoạch vận động cụ thể, đặc biệt là kế hoạch công tác trong vùng địch chiếm đóng. Sự chỉ đạo của cấp ủy còn mang tính hành chính. Cấp dưới triển khai thực hiện công tác vận động chưa triệt để. Do đó, ở một số thời điểm, công tác tôn giáo vận ở một số nơi không những không mang lại hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho địch lợi dụng để chống lại kháng chiến.

Hai là những sai lầm, hạn chế trong nhận thức, tư tưởng, năng lực công tác của một số cấp ủy, chính quyền và cán bộ làm công tác tôn giáo vận. Hiểu không đúng, không đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; vận dụng máy móc, rập khuôn (hiểu chính sách khoan hồng của Chính phủ đơn giản là tha hết, không cần phán xét32; dồn đình, chùa, tượng thần Phật để làm trường học33); tư tưởng hữu khuynh (đoàn kết nhưng không phê bình; một vài nơi, nhu nhược với những tên chức sắc phản động...),  “tả” khuynh, nóng vội, không phân biệt được bạn, thù, thành kiến với đồng bào Công giáo (coi tất cả các tín đồ đều là phản động), “dễ làm, khó bỏ” (chỉ muốn xin ra vùng du kích, căn cứ du kích hoạt động, không muốn vào vùng địch, vùng đồng bào các tôn giáo sinh sống); bệnh chủ quan, đại khái, không coi trọng công tác tôn giáo vận là điển hình cho những sai lầm trên.

Những sai lầm đó được phân tích, phản ánh trong nhiều văn kiện của Đảng. Chỉ thị ngày 26-11-1948 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi các Ban Chấp hành Liên khu Đảng bộ Về việc vận động giáo giới chỉ rõ: “Ngành giáo giới là một ngành quan trọng (...). Đáng lẽ ngành đó phải được Đoàn thể ta chú ý và có kế hoạch vận động cụ thể từ lâu, nhưng tới nay, chúng ta vẫn chưa làm, hay có làm thì kết quả cũng không đáng bao. Thực là một thiếu sót”34.

Báo cáo về tình hình Bắc Bộ trình bày tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba, khóa II (tháng 4-1952) nêu rõ: xu hướng “dễ làm, khó bỏ”, cán bộ đổ xô về vùng du kích và căn cứ du kích; cấp ủy chỉ đạo ít chú ý công tác vùng tạm bị chiếm và trong các làng công giáo; cán bộ còn thành kiến với đồng bào Công giáo; công tác chỉ lướt qua, chứ chưa có ý thức, kiên nhẫn, bám sát địa bàn để tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục, tổ chức giáo dân35.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư, khóa II (tháng 1-1953) nhấn mạnh: ở Liên khu IV, các đảng bộ coi nhẹ công tác dân vận, bỏ mặc quần chúng, nhất là thanh niên nam, nữ theo Công giáo, Phật giáo36. Đối với những chức sắc tôn giáo phản động, khi bắt được “mới làm một vài cuộc mít tinh để nhân dân tố cáo chúng (...) đã vội cho ngay là bọn cầm đầu đã ngoan ngoãn rồi”37.

Trong Chỉ thị về công tác Hòa Hảo vận cuối năm 1947, Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh: “Khối Hòa Hảo căn bản đã có tinh thần cách mạng, ta không thấy đặc tính ấy nên từ đầu kháng chiến không biết lôi kéo nông dân trong khối Hòa Hảo, (...), chỉ vì tranh giành ảnh hưởng, địa vị, quyền lợi cá nhân, các đồng chí ta nằm trong Hòa Hảo chia rẽ nhau, gây ra thù hằn tôn giáo. Do đó, không tôn trọng tự do tín ngưỡng, đi đến chỗ cầm dao đàn áp bộ đội và nhân dân Hòa Hảo, để cho Pháp xen vào, càng làm cho hằn thù sâu sắc thêm. Ta đẩy khối Hòa Hảo nông dân chống lại ta. Đó là khuyết điểm căn bản”38.

Những khuyết điểm trên đã tạo cơ hội cho Pháp, Mỹ lợi dụng mua chuộc, lôi kéo một số chức sắc, tín đồ, gây cho ta nhiều tổn thất. Các vụ chống phá, giết cán bộ, bộ đội, du kích và nhân dân của bọn phản động đội lốt tôn giáo ở Thái Bình39, Nam Định40, Hưng Yên, Kiến An, Thanh Hóa, Nghệ An; Bình-Trị-Thiên và ở Nam Bộ trong cuộc kháng chiến một phần bắt nguồn từ những sai lầm đã vạch ra.

Hạn chế, khuyết điểm trên có nhiều nguyên nhân. Một mặt, do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt; âm mưu, thủ đoạn của địch vô cùng thâm độc; cấp ủy, chính quyền các cấp phải lo đối phó nhiều mặt với địch nên sự quan tâm đến công tác tôn giáo vận bị hạn chế. Mặt khác, trong chiến tranh, việc đào tạo, bồi dưỡng mọi mặt cho cán bộ dân vận không thực hiện được đầy đủ; việc kiểm tra, giám sát, phê bình, góp ý có lúc không kịp thời.

Thực tiễn công tác tôn giáo vận của Đảng trong cuộc kháng chiến, cả mặt thành công cũng như chưa thành công đều để lại những bài học kinh nghiệm quý báu. Công tác toon giáo vận của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp có nhiều thành công với những kết quả quan trọng, qua đó khẳng định chủ trương về tôn giáo vận của Đảng là đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh yêu cầu, mục tiêu của cách mạng, nguyện vọng chính đáng của đồng bào các tôn giáo. Quá trình Đảng thực hiện công tác tôn giáo vận thời kỳ này để lại nhiều kinh nghiệm quý có giá trị tham khảo cho công tác tôn giáo vận hiện nay.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 6/2020

1, 2, 3, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 8, tr. 3, 193, 194, 195

4. Sđd, T11, tr. 72, 73

5, 6, 28. Sđd, T12, tr. 440, 476, 198

7, 16, 36, 37. Xem Sđd, T. 14, tr. 110-111, 109, 110, 110

8. Giám mục Lê Hữu Từ lúc đó là Giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm

9, 10, 11, 21, 22, 23, 25, 29. Xem Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, 1945-1954, Nxb CTQG, H, 2010, T. I, tr. 338 - 339, 361, 328, 338, 339, 337, 337-339, 337-339, 869-875

12, 24. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam-Quyển I (1930-1954), Nxb CTQG, H, 2006, tr. 380, 382

13, 18. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 235, 368

14, 15, 17. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình 1929-1954, xuất bản năm 1991, tr. 413, 529-530, 611

16, 36, 37. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 14, tr. 100, 110, 110

19. Xem Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Viện Kinh tế học. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, T. I, 1945-1954, Nxb Khoa học xã hội, H, 2002, tr. 453-454

20, 26, 38. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Những vấn đề chính yếu trong lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb CTQG-ST, H, 2011, tr. 681, 674, 670

27. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 5, tr. 516

31. Ban Chấp hành Trung ương. Ban Dân vận: Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2000), Nxb CTQG, H, 2015, tr. 199

32, 35. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 13, tr. 114, 145

33. Một số tỉnh vùng tự do Liên khu IV (Thanh Hóa), xem Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, T. 14, tr. 108

34. Sđd, T. 9, tr. 422

39. Vụ thảm sát ở Cao Mại (Kiến Xương-Thái Bình) giết 300 cán bộ và nhân dân; vụ thảm sát ở sân đình Đa Cốc giết 17 người, vụ nhà thờ Quỳnh Lang (Quỳnh Côi) bắt 200 người giam trong hầm kín làm chết 186 người. Xem Lịch sử Đảng Bộ Thái Bình 1929-1954, Sđd, tr.522 - 523

40. Riêng Vũ Đức Khâm đã giết 400.000 cán bộ, du kích và đồng bào yêu nước. Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1920-1975, Sđd, tr. 228.