Tóm tắt: Cuối tháng 2-1931, giữa lúc cao trào cách mạng 1930-1931 ở Việt Nam đang trong những thời khắc quyết liệt đã diễn ra các cuộc tranh luận nghị trường ở cả Viện Dân biểu Trung Kỳ và Hạ nghị viện Pháp về chính sách đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Với việc khai thác kỹ diễn biến và nội dung các cuộc tranh luận đó, ở nhiều nguồn tài liệu khác nhau1sẽ góp phần làm rõ những tác động của cao trào cách mạng 1930-1931 đối với chính giới Đông Dương và chính giới Pháp ngay tại thời điểm mà nó đang diễn ra. Qua đó, không những góp phần khẳng định vị thế, ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của cao trào cách mạng, mà còn góp phần làm rõ nguồn cơn sâu xa của những chính sách thuộc địa của người Pháp ở Việt Nam.

Từ khóa: Cao trào cách mạng 1930-1931; khởi nghĩa Yên Bái; phong trào đấu tranh ở Nghệ An, Hà Tĩnh; Viện Dân biểu Trung Kỳ; Hạ nghị viện Pháp

Di tích quốc gia đặc biệt Xô Viết Nghệ Tĩnh  

1. Cao trào cách mạng bùng nổ và chính sách đàn áp của thực dân Pháp

Từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới. Hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân dưới các hình thức kiến nghị tập thể, đình công, bãi công vv... nổ ra ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội, Sài Gòn, Bến Thủy và nhiều trung tâm công nghiệp khác. Tiếp đó là các cuộc đấu tranh sục sôi của hàng nghìn công nhân trong các đồn điền cao su Cam Tiêm và Phú Riềng ở Nam Kỳ. Cũng trong thời gian đó đã nổ ra cuộc khởi nghĩa vũ trang do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức và lãnh đạo. Đêm ngày 9-2-1930 quân khởi nghĩa đã tấn công đồn binh Pháp ở Yên Bái, giết chết một số sĩ quan Pháp và binh lính thuộc địa. Cùng lúc khởi nghĩa cũng nổ ra ở Lâm Thao (Phú Thọ), rồi một tuần sau lại bùng phát quyết liệt ở Vĩnh Bảo (Hải Dương), Phụ Dực (Thái Bình). Ngay tại Hà Nội và một số nơi khác quân khởi nghĩa cũng tổ chức ném bom tự chế, ám sát Việt gian vv...

Đặc biệt, từ ngày 1-5-1930, hàng chục cuộc biểu tình quần chúng đã nổ ra ở nhiều tỉnh trong khắp cả ba kỳ, lôi cuốn hàng nghìn nông dân, công nhân. Đáng chú ý là làn sóng đấu tranh này được phát động, tổ chức và lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc cho chính quyền thực dân Pháp ra sức răn đe, ngăn chặn và đàn áp bằng vũ lực, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam ngày càng rộng khắp hơn, quyết liệt hơn. Từ khoảng đầu tháng 8 đến giữa tháng 9-1930 phong trào đấu tranh đạt tới đỉnh cao ở Nghệ An và Hà Tĩnh, trở thành cao trào cách mạng với hàng chục cuộc đấu tranh, chủ yếu dưới hình thức biểu tình của hàng nghìn quần chúng, trừng trị quan lại, cường hào ở địa phương. Trong hàng chục làng, chính quyền cơ sở của chế độ thuộc địa tan rã, chính quyền cách mạng lần đầu tiên xuất hiện dưới hình thức Xô viết.

Đối phó với sự bùng nổ mạnh mẽ của phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp đã không ngần ngại sử dụng các thủ đoạn đàn áp thẳng tay, tàn khốc nhất. Đây cũng chính là thủ đoạn đàn áp và thống trị của người Pháp trong suốt thời gian kể từ khi họ thiết lập được ách thống trị thực dân trên đất nước Việt Nam. Albert Sarraut hay Alexandre Varenne làm Toàn quyền Đông Dương ra sức tuyên truyền cho “chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề” hay “Pháp - Nam hợp tác” thì họ cũng chưa bao giờ có ý định thay đổi chính sách đối phó với các phong trào phản kháng của nhân dân các xứ thuộc địa. Có chăng chỉ là tìm cách “bọc nhung” cho bàn tay sắt mà thôi.

Theo “truyền thống” đó, thực dân Pháp đã kiên quyết đáp trả cuộc khởi nghĩa vũ trang do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo và phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng những chiến dịch, những hành vi đàn áp thẳng tay. Cảnh sát, mật thám, lính địa phương và cả quân đội thường trực của chính quyền thuộc địa đều được đưa vào trận, ra sức ngăn chặn, săn lùng bắt, giết tất cả những ai mà thực dân Pháp và Nam triều cho là quân phản loạn. Ngày 12-2-1930, Toàn quyền Pierre Pasquier đã ban hành Nghị định thành lập Hội đồng Đề hình để xét xử và kết án các chiến sĩ tham gia vào cuộc nổi dậy. Giữa trưa ngày 16-2, đích thân Thống sứ Bắc Kỳ René Robin đã ra lệnh cho 5 chiếc máy bay ném xuống làng Cổ Am (Vĩnh Bảo) - một trong những nơi được cho là căn cứ của quân khởi nghĩa, 57 quả bom và bắn phá, triệt hạ ngôi làng này. 21 người đã bị thiệt mạng2.

Để khủng bố triệt để tinh thần của nhân dân Việt Nam, René Robin còn cho bố cáo rộng rãi về hành vi này, nhằm hăm dọa và triệt hạ tinh thần phản kháng của dân chúng bản xứ. Trong bức công điện gửi các viên công sứ tất cả các tỉnh ở Bắc Kỳ vào ngày hôm sau, René Robin viết: “Làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương, nơi bọn loạn quân rút về ẩn náu sau khi đã hạ sát ông huyện Vĩnh Bảo, đã bị giội bom bởi một phi đội được cử đi từ Hà Nội. Vậy bản chức thông tư cho các ngài biết. Các ngài phải thông báo việc ấy cho thật rộng rãi để cho dân các làng xã đều hay. Nếu làng nào còn chứa chấp bọn phản loạn, thì cũng sẽ bị trừng trị ngay như làng Cổ Am, quyết không tha thứ”3.

Đối với các cuộc biểu tình quần chúng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, các biện pháp đàn áp của thực dân Pháp còn tàn khốc hơn. Họ không ngần ngại hạ lệnh cho binh lính xả súng vào các đoàn biểu tình của nông dân ở Thái Bình, Long Xuyên, Cao Lãnh, Chợ Mới vv... Khi các cuộc biểu tình khổng lồ của nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh nổ ra thì các hành vi đàn áp của thực dân Pháp và Nam triều càng dữ dội hơn. Đặc biệt nghiêm trọng là: để đàn áp các cuộc biểu tình của hàng vạn nông dân và công nhân nổ ra ở Nam Đàn, Thanh Chương và Hưng Nguyên từ ngày 9 đến ngày 12-9-1930, thực dân Pháp đã cho binh lính và cảnh sát sử dụng súng máy bắn thẳng vào đoàn người, rồi sau đó nhiều lần cho máy bay ném bom vào giữa đám đông quần chúng. Hàng trăm người đã bị giết chết ngay tại chỗ. Hàng trăm người khác bị thương.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, nhà cầm quyền phải sử dụng quân đội thường trực và máy bay ném bom để đàn áp các cuộc biểu tình của dân chúng.

Cùng với các biện pháp trên, Hội đồng đề hình - một thứ tòa án đặc biệt của thực dân Pháp đã liên tục xét xử những người nổi dậy bị họ bắt giữ. Hàng trăm người đã bị kết án tử hình, bị hành quyết bằng máy chém. Hàng trăm người khác bị kết án rất nặng, từ 20 năm tù đến chung thân khổ sai. Hàng nghìn người bị giam cầm, tra tấn, thậm chí bị đưa đi đày biệt xứ, sang tận Guyane, Bắc Phi và Nouvelle Calédonie. 

 

Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931

2. Những chấn động chính trường Pháp: từ Việt Nam đến Paris

Bão táp bùng nổ: từ Yên Bái và Nghệ-Tĩnh đến phòng họp của Viện Dân biểu Trung Kỳ

Sau hơn 6 thập kỷ thống trị Việt Nam, đối với thực dân Pháp, việc nhân dân Việt Nam vùng lên chống lại ách nô dịch của họ, “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”4 hoàn toàn không có gì bất ngờ. Tuy nhiên, những gì xảy ra từ đầu năm 1930 đến giữa năm 1931 là điều người Pháp chưa từng phải đối mặt. Đó không chỉ là cuộc khởi nghĩa vũ trang của một nhóm nghĩa binh vài chục, vài trăm người bất chấp sống chết quyết lao vào cuộc chiến với tinh thần “sát thân thành nhân”, mà là một phong trào đấu tranh rộng khắp cả ba Kỳ, với sự tham gia của hàng chục, hàng trăm nghìn người. Hơn nữa, phong trào đó lại được lãnh đạo bởi một tổ chức có tầm vóc toàn cầu, có bệ đỡ vững chắc bởi sức bền ý thức hệ và hệ thống tổ chức quy củ, chặt chẽ - Đảng Cộng sản Việt Nam. Quả thật là chưa bao giờ nền thống trị thực dân của người Pháp ở Đông Dương và Việt Nam lại bị rung chuyển đến tận gốc và bị đe dọa đến mức như thế.

 Trong tình hình đó, toàn bộ hệ thống chính trị thực dân Pháp ở Đông Dương đã phải huy động tối đa các phương tiện bạo lực để bảo vệ sự tồn tại của chế độ thực dân - và kết cục là những xung đột đẫm máu đã xảy ra.

Với các biện pháp đàn áp quyết liệt, thực dân Pháp không chỉ mong muốn dập tắt phong trào phản kháng của nhân dân Việt Nam, mà còn muốn ngăn chặn những ảnh hưởng có thể gây hoang mang, phẫn nộ trong các tầng lớp nhân dân bản xứ, đồng thời tạo ra những bão táp chính trị trên chính trường chính quốc và hiệu ứng dây chuyền bùng nổ ở các thuộc địa khác của Pháp ở Bắc Phi và các nơi khác. Nếu để điều đó xảy ra thì toàn bộ nguyên tắc và chính sách thuộc địa của nước Pháp sẽ có thể buộc phải bị thay đổi và do đó giới tư bản thực dân Pháp sẽ phải gánh chịu những thiệt thòi, tổn thất vô cùng to lớn.

Tuy nhiên, ngay từ rất sớm, cuộc Khởi nghĩa Yên Bái và bão táp cách mạng ở Việt Nam đã làm rung chuyển toàn bộ xứ thuộc địa Đông Dương và dội mạnh sang chính trường nước Pháp và tạo ra những cơn địa chấn.

Ngay sau cuộc Khởi nghĩa Yên Bái, khi công luận Pháp và Đông Dương còn đang hoang mang, bàng hoàng vì sự vùng lên quật khởi của dân bản xứ và vì hành vi đàn áp đẫm máu, mang đậm tính chất trả thù của chính quyền thuộc địa ở Đông Dương, thì báo chí ở cả Sài Gòn, Huế, Hà Nội và Paris lại liên tiếp đưa các tin tức về việc Hội đồng Đề hình kết án tử hình hàng chục người vừa tham gia vào cuộc nổi dậy. Báo chí Pháp và báo chí ở Việt Nam thậm chí còn đưa chi tiết việc nhiều thủ lĩnh của Việt Nam Quốc dân đảng đã hiên ngang nhận trách nhiệm trước tòa án Đại hình, coi đó như bổn phận thiêng liêng của họ, với tư cách là người Việt Nam yêu nước5.

Chẳng hạn, báo Tiếng Dân số ra ngày 12-3-1930 đã đăng tin tường thuật chi tiết phiên xét xử ngày 28-2-1930 của Hội đồng Đề hình đối với các chiến sĩ tham gia Khởi nghĩa Yên Bái. Tại đó, trong khi một số người cố xin giảm án thì nhiều người khác đã tỏ rõ khí phách bất khuất, hiên ngang. Ngô Hải Hoàng (Cai Hoàng) khảng khái nói: “Tôi là người An Nam, tôi phải làm hết nghĩa vụ một người An Nam”6. Tiếp đó, ông còn yêu cầu tòa Đại hình Pháp: “Nước Đại Pháp đã đem chúng tôi ra xử trước Hội đồng Đề hình, vậy xin cho chúng tôi nói cho hả lòng rồi đây dẫu có bắn thì bắn”. Tuy nhiên: “Nói đến đây thì Quan chủ tịch Hội đồng bảo không được nói nữa, Hoàng bèn ngồi xuống ghế”7.

Cũng tờ báo này trong số ra ngày 23-3-1930 đã ghi nhận thực tế, rằng: “Sau những vụ biến động ngoài Bắc, Chính phủ đàn áp thế nào, các báo đều có nói đến: nào đem tàu bay ném bom và bắn súng xuống các làng, nào dùng cốt mìn mà đốt phá nhà cửa. Dư luận người Nam đối với những việc ấy, nói sợ thì cũng có thể có, chớ rất lấy làm bất phục. Nhưng không cần nói đến dư luận người Nam - người ta sẽ nói người Nam bàn công việc của chính phủ Pháp không theo lẽ công bình. Chính trong người Pháp cũng có nhiều kẻ biết rằng chính sách đàn áp về đường luân lý không tốt đã đành, mà về đường chính trị cũng không có hiệu quả tốt”7. Có thể nói, giữa lúc bầu không khí chính trị cực kỳ căng thẳng và lại phải chịu sự kiểm duyệt gắt gao của thực dân Pháp mà tờ báo công khai của nhân sĩ yêu nước lão thành Huỳnh Thúc Kháng vẫn khẳng khái đưa tin và bình luận như trên thì đích thực là một hành động dũng cảm phi thường.

Tiếp đó, báo giới Việt Nam và Pháp đưa tin về việc thực dân Pháp triệt hạ các làng xóm, bắn giết người vô tội ở Cổ Am và Võng La, nhất là việc Hội đồng Đề hình tuyên tử hình Nguyễn Thái Học và hàng chục thủ lĩnh khác của Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời đày biệt xứ sang Guynane hàng nghìn người thì làn sóng bất bình càng dâng cao8.

Liền ngay sau đó, phong trào cách mạng bùng nổ khắp cả ba kỳ, đặc biệt quyết liệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Liên tiếp trên các trang báo công khai, bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, đều ra sức đưa tin nóng hổi về các cuộc đấu tranh của nhân dân và các biện pháp đàn áp khốc liệt của chính quyền thuộc địa. Mặc dù bị theo dõi và kiểm duyệt gắt gao, nhiều bài bị cắt bỏ hoàn toàn, nhiều trang báo bị nham nhở bởi những dòng tin bị thực dân Pháp xóa bỏ, nhưng báo Tiếng Dân vẫn kiên cường bám trụ đưa tin để công luận trong nước nắm được tình hình.

Trong số 317 ra ngày 17-9-1930, báo Tiếng Dân đã đưa tin khá chi tiết các cuộc biểu tình khổng lồ của nhân dân các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Hà Tĩnh vv... trong những ngày đầu tháng 9-1930. Tờ báo cũng tường thuật rõ việc thực dân Pháp sử dụng cảnh sát, quân đội, máy bay ném bom và xả súng vào các đoàn biểu tình làm hàng chục, hàng trăm người chết và bị thương9. Trong khi đưa tin, tờ báo này đã rất khéo léo chỉ ra rằng các biện pháp đàn áp tàn bạo đó được đưa ra trên cơ sở nhất trí rất cao giữa các cấp chính quyền thuộc địa. Chẳng hạn, khi đưa tin về việc đàn áp cuộc biểu tình của khoảng 8.000 dân Đô Lương nổ ra ngày 9-9-1930, Tiếng Dân viết: “Quan đồn tin cho quan Công sứ hay; quan Công sứ lại tin cho quan Khâm sứ và viện Cơ Mật”. Cuối bài viết, tờ báo cho biết: “Quan Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol và quan Thượng thơ bộ Hình Tôn Thất Đàn đã ngồi tàu bay về Huế khi 8 giờ ½, đến Huế 10 giờ ½. Lần này là lần đầu tiên mà một quan Thượng thơ Nam triều đi tàu bay vậy”10.

Cũng trong số báo trên, tờ Tiếng Dân đã đưa một tin rất quan trọng về cuộc họp của Viện Dân biểu Trung Kỳ. Bài báo đã đưa tin vắn tắt về việc Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến dự và phát biểu khai mạc, “có nói về phong trào cộng sản ở các tỉnh miền Bắc, về cách đàn áp”. “Kế đó ông Nguyễn Đức Lý và ông Lê Trung Khoản đến trước quan Khâm sứ đưa tờ yêu cầu xin chính phủ giảm cách đàn áp quá nghiêm khắc như dùng tàu bay thả trái phá và bắn súng cối xay11 vào những đám biểu tình ở Nghệ, Tĩnh”12.

Tờ báo cũng đưa tin về việc Khâm sứ Le Fol đáp trả ngay tức khắc lời thỉnh cầu của hai ông nghị nói trên như sau: “Quan Khâm sứ trả lời rằng cách đàn áp nghiêm khắc ấy là cốt để bảo hộ cho lương dân... Ngài lại nói nếu trong viện có ông nào có thể không dùng đến võ lực dẹp yên được các cuộc rắc rối ở Nghệ-Tĩnh, thì chính phủ Bảo hộ, và cả Nam triều nữa sẽ bằng lòng để cho đi ra thi thố phương sách”13.

Liên tiếp trong 5 số, báo Tiếng Dân tiếp tục đưa tin về vấn đề này trong cuộc họp của Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trong số ra ngày 20-9-1930, tờ báo đã đăng lại toàn văn bài diễn văn của Khâm sứ Le Fol. Chỉ riêng việc Khâm sứ Trung Kỳ phải dành gần như trọn vẹn bài diễn văn khá dài đó để nói về các cuộc biểu tình ở Nghệ-Tĩnh và việc đàn áp của chính phủ thuộc địa đã đủ cho thấy chính trường Đông Dương bị chấn động mạnh mẽ đến thế nào. Trước hết, Le Fol mượn lời các “đại biểu Bắc Trung Kỳ” để xuyên tạc, thổi phồng “nguy cơ cộng sản” hòng hù dọa công luận: “ai nấy đều cũng biết rõ rằng nếu theo cộng sản thời sẽ tiêu diệt hết thảy các chế độ của dân tộc văn minh, như là: điền địa sự nghiệp, quan tước, gia đình, nhân phẩm...”14. Theo Le Fol thì phong trào cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo hoàn toàn là do “bọn cổ động tôn chỉ cộng sản từ bên kinh đô nước Nga qua đây, cốt làm cho khôn khéo để phỉnh phờ dọa nạt lương dân”15.

Đây chính là luận điệu ngụy biện để Le Fol giải thích cho chính sách đàn áp khốc liệt của chính phủ thuộc địa, nhằm “bênh vực lương dân”. Sau khi biện luận quanh co thì Khâm sứ Trung Kỳ cũng không ngần ngại tuyên bố rõ chính sách của thực dân Pháp ngay tại diễn đàn của Viện Dân biểu Trung Kỳ: “Chí như trong các tỉnh hạt mà bọn hành động cộng sản đã làm ra mặt, thời phải lập tức tùng nghiêm trừ khử mới được”16. Le Fol nhấn mạnh: “Cách trừng trị như vậy là cần lắm. Những bậc biết giữ đạo lý, ai nấy cũng công nhận rằng đúng. Có trừng trị như vậy mới khỏi bọn phiến động bạo dạn ngày càng mọc lên, mà có vậy kẻ lương dân mới chắc rằng có người bênh vực bảo hộ”17.

Trong lúc chế độ thực dân bị đe dọa, Le Fol và tập đoàn thực dân đầu sỏ tỏ ra khôn ngoan khi một mực đề cao vai trò của Nam triều. Le Fol luôn miệng nhấn mạnh rằng: các biện pháp nghiêm trị đó là do sĩ dân các tỉnh Trung Kỳ tha thiết yêu cầu, và: “Cơ Mật viện đã thương đồng với bản chức biệt ủy một ngài Hiệp tá đại thần và quan Giám đốc thanh tra đại nhơn đi ra phía Bắc. Hai ngài ấy ra đó đã có đủ quyền binh thời tùy theo tình thế mà định đoạt”18.

Riêng về Tôn Thất Đàn, kẻ đã tuyên bố một câu tàn nhẫn nổi tiếng khi vừa tới Nghệ An chỉ huy cuộc tắm máu nhân dân ở đó, rằng “Hữu Nghệ Tĩnh bất phú, vô Nghệ Tĩnh bất bần” - ý nói sẵn sàng giết sạch, đốt sạch, thì lại nhận được những lời ca tụng như thế này của Le Fol: “Sự cử hành đó là một sự khó khăn, mà Cụ lớn Hình bộ Hiệp tá Tôn Thất Đài thần đã sẵn lòng nhận đi. Ngài là một bậc minh chánh có nhiều đức tánh quý hóa mà lại lão thành, ai nấy cũng phải tin cậy, kính phục”19.

Và để lừa bịp, lôi kéo sự ủng hộ, trung thành của giới nhân sĩ, quan lại Trung Kỳ, Khâm sứ Le Fol đã thông báo, rằng hai năm rưỡi nữa thì Hoàng đế Bảo Đại sẽ hồi loan và sẽ được khôi phục đầy đủ thực quyền, và họ sẽ “được hồng phúc mà chiêm bái quốc quân, cung nghinh thánh giá”, và rằng “đến lúc ấy đức Hoàng thượng tổng quản đủ các quân quyền, lại có kế hoạch minh kiến của các quan Chánh khanh, thời tùy ngài thương đồng với Pháp quốc mà nghị định một cái chánh thể lâm dân20 mới ở nước Nam ta”21.

Hẳn rằng nghe thấy những “lời có cánh” như trên của Le Fol thì các ông nghị và sĩ dân Trung Kỳ phải sung sướng lắm và tạm quên đi việc hàng trăm người vừa bị giết, hàng nghìn người bị thương, hàng chục ngôi làng bị triệt hạ ở Nghệ-Tĩnh. Chỉ chờ có thế, Khâm sứ Trung Kỳ nói rõ điều mà thực dân Pháp đang mong đợi ở những bậc “tai mắt” trong giới thượng lưu bản xứ: “Tôi ân cần xin các chức22, trên vì trung thành với quốc quân, dưới vì ưu ái với đồng bào, vận dụng hết thảy chức quyền, hết thảy oai quyền mà giữ trật tự và giữ sự trị an trong nước, và cần phải có hai điều đó nước mới tấn bộ được”23.

Trong số tiếp theo, ra ngày 24-9-1930, báo Tiếng Dân lại cho đăng toàn văn tờ trình của Viện Dân biểu Trung Kỳ gửi trực tiếp cho Khâm sứ Trung Kỳ và Cơ Mật viện của Nam triều. Nội dung tờ trình đó như sau: “Mấy hôm nay vì cuộc biểu tình trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh mà Nhà nước đã dùng đến tàu bay ném tạc đạn, bắn súng cối xay, chết mất nhân dân nhiều quá. Vậy toàn Viện chúng tôi xin Chính phủ mở lượng khoan dung mà bỏ cách trừng phạt quá nghiêm ấy, vì xét trong đám người bị tạc đạn và súng cối xay bắn chết đó có phần rất nhiều kẻ lương dân bị bọn quá khích bắt theo đi biểu tình mà bị hại. Toàn Viện chúng tôi cảm ơn hai Chính phủ vô cùng”24.

Phải thừa nhận rằng trong bối cảnh nước sôi lửa nóng như vậy và trước thái độ cứng rắn của thực dân Pháp như thế mà Viện Dân biểu Trung Kỳ dám đưa ra tờ trình nói trên thì là một hành động khá dũng cảm. Mặc cho Le Fol phủ quyết luôn lời khẩn cầu đó, trong ngày họp bế mạc, Viện trưởng Nguyễn Trác vẫn nêu lại vấn đề trong bài phát biểu của ông: Chúng tôi rất cảm động về những cuộc biểu tình đó, chúng tôi biết rằng vẫn có bọn chủ động trong đám biểu tình, và bọn chủ động đó vẫn đáng bị trừng trị; nhưng xét phần nhiều trong đám biểu tình là những bình dân bị lừa, bị ức hiếp mà phải theo. Chúng tôi ao ước rằng: những khi nhà nước trừng trị những bọn biểu tình đó, nên hết sức khoan dung dân bị lừa hiếp đó25.

Tiếp đó, Nguyễn Trác nói: mặc dù ông và các nghị viên biết rõ họ “quyền hạn hẹp hòi, không được bàn đến chính trị”, nhưng nhân việc diễn ra ở Nghệ-Tĩnh, họ đành phải “lấy lòng thành thực bày tỏ ý kiến”. Khẳng định “dân Việt Nam vốn thích hòa bình, chuộng công lý”, ông nói: “Nguyên dân tộc Việt Nam chúng tôi, không phải như dân tộc yếu hèn khác, dân tộc Việt Nam đã có lịch sử, có văn hóa, có tính tình, phong tục riêng. Từ nửa thế kỷ lại nay, nhờ công khai hóa của bảo hộ, xét về đàng kinh tế, xã hội vẫn có tiến bộ, nhưng xét về đường chính trị thì chưa thấy cải cách cho hợp với ý nguyện của dân”26. Dù phải chọn cách nói rất khéo léo, song, Nguyễn Trác cũng đã chỉ ra được ít nhiều nguyên nhân bên trong của những sự bùng nổ các xung đột xã hội - chính trị, chứ không như cách Le Fol biện bác, hoàn toàn đổ vấy cho sự xúi giục của cộng sản từ bên ngoài.

Bài phát biểu của Viện trưởng Nguyễn Trác đã khiến Khâm Sứ Le Fol lại phải đăng đàn. Một lần nữa ông ta khẳng định quan điểm của giới thực dân Pháp về nguyên nhân cội nguồn của các phong trào đấu tranh của nhân dân bản xứ: “Tôi vẫn chắc rằng cái làn sóng điên cuồng nhiễu loạn đã từ Xiêm La, China mà tràn qua đến hai bên bờ sông Cả, sẽ là một việc ngẫu nhiên trong lúc tạm thời”27. Và một lần nữa viên Khâm sứ khẳng định chính sách đàn áp bạo lực của chính phủ thuộc địa: “Hôm nay tôi cố ý nhắc lại cho các ngài rõ rằng Chính phủ Pháp, một ý với Nam triều, đã dự bị các cách sắp đặt căn yếu đặng đem các nơi nhiễu loạn vào vòng trật tự, cùng nghiêm trị những ai là thủ phạm và bảo hộ lương dân”. Và một lần nữa, ông ta nhắc lại bổn phận của các phần tử tay sai là: “hãy ra công giùm giúp Chính phủ” để “giữ gìn trị an của dân chúng”28.

Ngay sau khi tuyên bố bế mạc kỳ họp của Viện Dân biểu Trung Kỳ, Le Fol lại cùng Tôn Thất Đàn bay ra Vinh cùng gặp Toàn quyền Pierre Pasquier trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp cao trào cách mạng ở Nghệ-Tĩnh. Quan Thống soái Billiote cũng từ Hà Nội vào Vinh cùng với xe bọc thép và súng cối xay, sẵn sàng cho những chiến dịch bắn giết mới29.

Rõ ràng là ngay từ khi phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam vừa lên đến đỉnh cao, trở thành cao trào quật khởi thì cũng là lúc chính quyền thực dân Pháp và tay sai quyết tâm tung ra những biện pháp đàn áp thẳng tay, tàn bạo nhất. Và điều này đã tạo ra chấn động mạnh trong chính trường bản xứ, thể hiện rõ nhất trong diễn biến của phiên họp của Viện Dân biểu Trung Kỳ. Thực dân Pháp vẫn kiên quyết thực thi chính sách đàn áp cứng rắn, nhưng cũng đã phần nào dao động, nên Le Fol thấy cần thiết phải vỗ về, an ủi, lôi kéo thêm tầng lớp quan lại Nam triều và giới thượng lưu bản xứ. Trong khi đó, đã có một bộ phận trong giới này dao động mạnh. Họ bị cả phong trào cách mạng của nhân dân lẫn cách đàn áp tàn bạo của người Pháp làm cho khiếp đảm và đã lên tiếng nhằm chặn bàn tay đàn áp của thực dân Pháp.

Đại địa chấn tại Hạ nghị viện Pháp

Trên thực tế, ngay từ đầu năm 1930, nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Yên Bái, báo chí Pháp đã quan tâm đưa tin về các sự biến ở xứ thuộc địa Đông Dương. Công luận Pháp, nhất là nhân dân lao động và các đảng phái cánh tả, như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Xã hội Pháp, Hội Nhân quyền v.v.. tỏ ra lo lắng, quan ngại, hoài nghi chính sách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương và Việt Nam.

Đương nhiên, quan tâm sâu sắc nhất đến tình hình ở Việt Nam chính là những người Việt Nam đang sinh sống, lao động và học tập ở Pháp. Từ sau Chiến tranh Thế giới I, không chỉ số lượng người Việt Nam ở Pháp đã tăng lên đáng kể, mà quan trọng hơn ngày càng có thêm nhiều người, nhất là trí thức, sinh viên tham gia tích cực vào các phong trào yêu nước và cách mạng.

Đầu tháng 5-1930, Tổng hội sinh viên Việt Nam ở Pháp quyết định tổ chức một cuộc biểu tình trước điện Élysée và đưa kháng thư cho Tổng thống Pháp Gaston Doumergue đòi ân xá cho các chiến sĩ tham gia Khởi nghĩa Yên Bái. Nhiều truyền đơn được phân phát ở Paris, Marseille, Toulouse v.v.. phản đối thực dân Pháp thảm sát người dân vô tội ở Việt Nam. Ngày 22-5-1930, cuộc biểu tình đã diễn ra trước điện Élysée với sự tham gia của hơn 100 Việt kiều yêu nước, chủ yếu là thanh niên sinh viên và một số người Pháp tiến bộ. Trần Văn Giàu và Huỳnh Văn Phương dẫn đầu đoàn biểu tình, giương cao biểu ngữ và hô vang các khẩu hiệu phản đối việc đàn áp của Chính phủ thuộc địa Đông Dương. Cảnh sát Pháp đã giải tán cuộc biểu tình bằng vũ lực, 47 người bị bắt giữ, trong đó có 19 sinh viên. Sau 9 ngày bị giam giữ ở Khám Lớn (Santé), ngày 30-5-1930 số sinh viên này bị đưa thẳng đến cảng Marseille và bị trục xuất về nước theo lệnh của Tổng thống Pháp30.

Có thể nói, cuộc biểu tình này như một phát pháo hiệu nổ giữa thủ đô của nước Pháp, khiến cho không chỉ hàng nghìn người Việt Nam ở Pháp dồn sự chú ý về quê nhà mà còn làm cho công luận và chính giới Pháp phải quan tâm nghiêm túc hơn đến những gì đang diễn ra khốc liệt hàng ngày, hàng giờ ở xứ thuộc địa Đông Dương.

Và quả nhiên ngay sau đó, bão táp đã tràn từ Đông Dương sang đến Paris, tạo nên một cơn địa chấn mạnh mẽ trong chính giới Pháp, ngay tại diễn đàn Hạ nghị viện Pháp.

Trong thời kỳ này, Nghị viện Pháp được tổ chức theo Hiến pháp năm 1875, chia làm hai viện, gồm Thượng viện (Sénat) và Hạ nghị viện (Chambre des députés des départements). Trong khi Thượng viện là cơ quan đại diện cho các địa phương, Hạ nghị viện Pháp là cơ quan lập pháp, được thành lập do tổng tuyển cử. Có thể nói Hạ nghị viện là cơ quan tiêu biểu nhất của nền dân chủ đại nghị Pháp và cũng là diễn đàn tranh đấu sôi nổi và quyết liệt nhất giữa các chính đảng, tiêu biểu cho các giai cấp, các lực lượng và các xu hướng trong chính trường nước này.

Theo truyền thống của nước Pháp từ sau cuộc Đại cách mạng 1789, trong Hạ nghị viện Pháp, các xu hướng chính trị được phân biệt với nhau bằng những cách định danh như “phái tả”, “phái hữu”, “phái giữa” v.v.. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các “phái” đó lại được đại diện bởi những chính đảng hoặc phong trào chính trị khác nhau. Ở thời điểm 1930-1931, hai đại diện lớn nhất của “phái tả” trong Hạ nghị viện Pháp là Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp - là các chính đảng tự cho là đại diện của giai cấp cần lao, trí thức Pháp. Còn “phái hữu” được đại diện bởi một số đảng phái bảo thủ, như “Nước Pháp hành động”, “Cộng hòa” - là những chính đảng của giới tư bản tài chính, địa chủ, thực dân. Trong khi đó “phái giữa” tỏ ra yếu hơn và không ổn định, được tiêu biểu bằng các tổ chức như “Liên minh trung lập”, “Phong trào dân chủ” v.v.. Các đảng phái này trong Hạ nghị viện Pháp là nơi tập trung tinh hoa của chính giới Pháp, là nguồn cung cấp quan chức cho Chính phủ Pháp và chính phủ ở các xứ thuộc địa của Pháp. Trước mỗi vấn đề hệ trọng của nước Pháp các đảng phái này đều đấu tranh quyết liệt với nhau trong nghị trường. Và tất cả các cuộc đấu tranh nghị trường đó đều được báo chí Pháp tường thuật chi tiết, nhằm đáp ứng yêu cầu theo dõi và kiểm soát quyền lực của công luận và nhân dân nước Pháp - trên nguyên tắc là một quốc gia có truyền thống dân chủ đại nghị (parlamentary democracy) nổi tiếng nhất thế giới.

Vào ngày 23-2-1931, lần đầu tiên những cuộc tranh luận như vũ bão đã diễn ra trong Hạ nghị viện Pháp về một vấn đề của một xứ thuộc địa của Pháp: phong trào đấu tranh của nhân dân bản xứ ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh và chính sách đàn áp của chính phủ Pháp và chính phủ thuộc địa Đông Dương.

Toàn bộ các cuộc tranh luận này đã được tờ Journal Officiel de la Republique français đăng trọn vẹn trong loạt bài có tên là “Débats  parlementaires”. Sau đó, thông tin về các cuộc tranh luận đó đã được một số tờ báo tiếng Pháp và tiếng Việt ở Việt Nam đưa tin. Riêng tờ Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng thì chuyển ngữ toàn bộ các bài của tờ báo Pháp nói trên rồi đăng tải liên tục từ số 382 (9-5-1931) đến số 392 (13-6-1931) dưới tiêu đề “Đông Dương tại Hạ nghị viện Pháp”. Việc làm này của báo Tiếng Dân rất có ý nghĩa, bởi nó cung cấp kịp thời những thông tin về phản ứng của chính giới chóp bu của Pháp đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, nhất là khi những thông tin này lại luôn được đăng kèm theo những tin tức cập nhật về cao trào đấu tranh đang diễn ra ở Nghệ-Tĩnh và các địa phương khác.

Có thể tóm tắt cuộc tranh luận đó như sau: trong khi Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Paul Reynaud - một chính khách thuộc phái hữu, ra sức xuyên tạc bản chất của phong trào đấu tranh do Đảng Cộng sản lãnh đạo ở Việt Nam, đồng thời cố gắng bảo vệ, biện bạch cho các biện pháp đàn áp thẳng tay của chính phủ thuộc địa Đông Dương, thì nhiều chính khách phái tả, như André Marty, Jacques Doriot (Đảng Cộng sản Pháp), Marius Moutet, Alexandre Varenne, Léon Blum, Léon Archimbaud (Đảng Xã hội Pháp) v.v.. thì kịch liệt phản đối chính sách đàn áp tàn bạo của chính phủ thuộc địa Pháp.

Để hiểu đầy đủ và chính xác hơn những quan điểm và thái độ của chính giới Pháp khi đó về Cao trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, cần thiết phải đi sâu hơn vào diễn biến cụ thể của cuộc tranh luận này.

Lúc đầu, Bộ thuộc địa Pháp không muốn đưa vấn đề này ra Hạ nghị viện. Chính nghị sĩ Lionel de Tasies đã vạch trần âm mưu đó và đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự. Ông nói: “Thưa quan Tổng trưởng thuộc địa, không phải với tàu bay, với trái phá, với súng cối xay mà làm yên được xứ Đông Dương đâu!’31. Đồng thời, ông cũng chỉ ra nguyên nhân của những sự biến ở Đông Dương: “Nhưng tôi chắc rằng trong việc cai trị có nhiều sự sai lầm mà sự tuyên truyền của cộng sản mới bành trướng được. Những sự sai lầm đó có cả về mặt chính trị và về mặt kinh tế”32.

Bằng cách đặt vấn đề như thế, Lionel de Tasies đã buộc Hạ nghị viện Pháp phải xem xét và tranh luận về những gì đã và đang diễn ra ở Đông Dương.

Tiếp lời de Tasies, nghị sĩ Jacques Doriot nói: “Thưa các ngài! Tình hình Đông Dương rắc rối quá, muốn bàn cho thấu đáo thì phải bàn cho lâu”. Ông nhắc lại câu nói của Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier, rằng “Nước Pháp chiếm xứ Đông Dương làm thuộc địa chỉ là vì sự lợi ích của xứ Đông Dương” và khẳng định: “Tôi hết sức phản đối câu nói ấy. Xem những công cuộc đã làm bên ấy - những công cuộc ấy ở đây mấy ai được biết rõ - thì thấy ngay nhiều điều trái ngược”33. Ngay sau đó, các nghị sĩ cánh tả nổi tiếng như Marius Moutet, Alexandre Varenne và M.L.O Frossard cùng lên tiếng đòi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa phải giải trình rõ tình hình Đông Dương và chính sách đàn áp của chính phủ thuộc địa Đông Dương. Ông Frossard cho biết rằng ông vừa đọc cuốn sách “Việt Nam” của Louis Roubaud34 và “Tôi đọc mà không khỏi rùng mình tức giận”. Ông đề nghị: “Chúng tôi muốn quan Tổng trưởng thuộc địa bỏ bớt những cách đàn áp bằng võ lực đã thi hành ở Đông Dương đối với thời cục hiện tại. Chúng ta phải đồng ý nhận rằng trong những cách đàn áp đó có nhiều cách quá tàn nhẫn, không xứng với danh dự nước ta”35. Sau khi một lần nữa nhắc lại những biện pháp đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp ở Việt Nam, vị nghị sĩ cánh tả này nói tiếp: “Như thế có phải là công lý của nước Pháp không. Không, tôi không tin như thế, mà các ngài chắc cũng không tin như thế. Chúng ta cả thảy đều yêu nước chúng ta, trước mặt cả các dân tộc trên thế giới, trước mặt các dân tộc thuộc địa của chúng ta, chúng ta phải làm thế nào cho nước chúng ta có cái thể diện một cách khác kia”36.

Tiếp lời Frossard, nghị sĩ Léon Archimbaud nói: “Tôi có thể nói với Chính phủ, với quan Tổng trưởng thuộc địa, rằng nếu chúng ta không sửa đổi cách cai trị thì trong một vài năm nữa chúng ta sẽ mất hẳn xứ Đông Dương. Thế nào cũng phải sửa đổi mới đươc”37. Lời phát biểu này ngay lập tức nhận được sự tán đồng của A. Varenne: “Đúng lắm!”

Đi xa hơn, Léon Archimbaud còn đòi đảm bảo những quyền tự do, dân chủ cơ bản cho nhân dân thuộc địa. Ông nói: “Chúng ta thờ chủ nghĩa dân chủ - điều ấy phải nói thiệt - thì chúng ta phải để cho dân Đông Dương được dự vào trong trường chính trị và cai trị ở xứ họ, phải mở rộng quyền hạn cho các Nghị viện Hội đồng của họ, phải để cho các đại biểu của họ được quyền nói hoàn toàn y như chúng ta. Nếu như không làm được như lời nói đó thì xứ Đông Dương sẽ là một trường hoạt động của Đảng Cộng sản, không sai. Chúng ta nên nhớ rằng chúng ta là một dân tộc cộng hòa, chớ nên đãi dân tộc bị chúng ta bảo hộ như tôi tớ nô lệ mà phải xem họ như anh em và hết lòng khai hóa cho họ; khi họ đã đến được trình độ tri thức như chúng ta thì còn phải để cho họ được hoàn toàn giải phóng mà đứng ra làm bạn ngang hàng với nước Pháp”38.

Như thế là Archimbaud đã đi từ chỗ nhấn mạnh “bổn phận”, “danh dự” của nước Pháp tới chỗ lý tưởng hóa “sứ mệnh khai hóa” của người Pháp với tính cách là đại diện cho các lý tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Đây là động cơ, là căn cứ chủ yếu nhất để dựa vào đó mà các chính khách tả phái của Đảng Xã hội Pháp phê phán chính sách cai trị và đàn áp tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương-điều mà họ cho là một sự phản bội và sỉ nhục đối với dân tộc Pháp.

Trước sự công kích dữ dội của các chính khách tả phái, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Paul Reynaud đã phải đăng đàn giải trình. Để biện bạch cho chính sách cai trị hà khắc và chính sách đàn áp thẳng tay của mình, ông ta đã cường điệu hóa các “nguy cơ” đối với xứ Đông Dương: đó chính là sự phát triển của phong trào cộng sản ở Trung Quốc, ở Nam Dương (sau này là Indonesia), Philippinnes, Miến Điện, Ấn Độ. Reynaud nói: “Xem cái địa điểm của Đông Dương như thế, các ngài có ai dám nói quyết rằng ở Đông Dương chủ nghĩa cộng sản không nảy nở ra được, hoặc không có hiệu lực kết quả không? Đông Dương hiện nay cũng đã rối rắm lắm rồi: truyền đơn báo chí mỗi ngày mỗi thấy rải phát. Báo ấy thứ thì ở trong nước in ra, thứ thì ở Quảng Châu, Hồng Kông, ở cả bên châu Âu đưa đến. Ngoài cách tuyên truyền bằng giấy mực ra lại còn cách tuyên truyền bằng miệng nữa”39.

Paul Reynaud cho biết: ở Đông Dương những người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của “tuyên truyền cộng sản” chính là cu ly (coolies - cách gọi công nhân hồi đó), mà theo ông ta thì: “Cu ly là hạng người nào? Là hạng người không học thức, không hiểu trật tự trong gia đình, trong làng xã là gì”40.

Paul Reynaud vừa nói đến đây liền bị nghị sĩ cộng sản André Marty đập lại: “Cu ly là một hạng người bị các ông làm đói khát cực khổ, vì thế nên họ mới nghe hiểu các đảng viên cộng sản”41.

Paul Reynaud nói tiếp: “Một người cu ly nghe giảng chủ nghĩa cộng sản ở các chốn thành thị khi về làng là một tay cổ động cộng sản. Sự tuyên truyền cộng sản rất là tài bộ, một mặt họ xúi chia đất ruộng, một mặt họ lợi dụng điều thích của người An Nam là làm quan và được mày đay kim khánh”42.

Mặc dù cố tình xuyên tạc bản chất của phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhưng qua những gì mà Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp nói, có thể thấy giới chính khách thực dân Pháp buộc phải thừa nhận ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của Đảng trong quần chúng nhân dân, nhất là công nông.

Cho nên, Paul Reynaud không ngần ngại tuyên bố trước Hạ nghị viện Pháp: “Tôi không ưa biện bác, tôi chỉ nói ngay rằng: Giữa chúng ta với cộng sản không có gì khác hơn là võ lực; mà nói đến võ lực thì nhất định chúng ta phải giữ phần thắng. Bổn phận chúng ta là trước hết phải dùng thái độ cương quyết mà giữ gìn trật tự; nếu vì sợ hãi mà nhận những việc cải cách thì đảng cộng sản không khỏi tưởng là chúng ta yếu thế mà nổi lên chống với chúng ta. Việc đã rõ ràng, đảng cộng sản muốn đuổi nước Pháp ra khỏi Đông Dương. Đó, một cuộc chiến tranh giữa chúng ta và đảng cộng sản. Chống với đảng ấy là việc chúng ta sẽ làm cho tới nơi”43.

Đây là lần đầu tiên một chính khách cao cấp của Pháp tuyên bố công khai cuộc chiến đến cùng chống lại phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đáp lại rất gay gắt lời tuyên chiến của Paul Reynaud, nghị sĩ cộng sản André Marty nói: “Chống với các ông cũng là việc chúng tôi sẽ làm cho tới nơi!”44.

Tiếp theo, Paul Reynaud giải trình cụ thể lý do mà thực dân Pháp đã sử dụng máy bay ném bom và súng liên thanh để đàn áp các cuộc biểu tình của quần chúng hồi tháng 8 và tháng 9-1930, nhất là cuộc biểu tình ở Thanh Chương ngày 12-9-1930. Trả lời câu hỏi của Marius Moutet “Đó có phải là những cuộc biểu tình thường không?”, Paul Reynaud nói: “Không! Dân biểu tình có khí giới kéo đến đánh huyện lỵ nầy, phá phủ lỵ kia, họ hành động có ý thức, họ biết họ làm cách mệnh”45. Paul Reynaud biện bác cho việc sử dụng bạo lực đàn áp của thực dân Pháp: “Ba toán biểu tình kể đến mấy nghìn người từ phía Tây Bắc và phía Đông kéo đến Vinh. Chúng ta chỉ có 77 người lính khố xanh trỏm trẻm, không ngăn họ lại được, họ đến phủ lỵ Hưng Nguyên. Khi đó, đối phó với họ chỉ còn một cách thôi, là dùng máy bay ném bom. Ban đầu tàu bay bay thấp, hô giải tán, nhưng dân biểu tình cũng một mực đi tới. Tình hình nguy khẩn. Một quả bom ném xuống, 15 người chết, còn bao nhiêu cũng cứ đi tới luôn. Một quả bom thứ hai ném xuống, 107 người chết. Khi ấy dân mới tản”46. Paul Reynaud cũng dẫn ra cả báo cáo của Toàn quyền Pierre Pasquier để minh họa thêm cho lời phát biểu của mình.

Dù là mô tả với mục đích để biện bạch cho các biện pháp đàn áp, vô tình Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp đã phải thừa nhận tinh thần giác ngộ cách mạng rất cao và ý chí chiến đấu bất khuất, khí thế ngút trời của các cuộc biểu tình của nhân dân Nghệ An trong cao trào cách mạng 1930-1931.

Để tiếp tục biện giải về chính sách đàn áp của thực dân Pháp, Paul Reynaud cho biết: nhờ có các biện pháp cứng rắn như vậy mà tình hình Đông Dương đã yên ổn trở lại, hàng chục nghìn người đã xin “quy thuận” chính phủ thuộc địa. Tuy nhiên, ông ta cũng khẳng định rằng chưa thể chấm dứt được các biện pháp đàn áp bằng vũ lực, bởi vì: “Gì thì gì, chúng ta không thể vì một tính câu nệ riêng của người Pháp mà bỏ hết những dân lương thiện xứ Đông Dương hiện đương bị đảng cách mệnh dọa nạt”; Và: “Đảng Cộng sản Đông Dương hiện nay thế lực còn vững vàng lắm, không ai dám đảm bảo đã tiêu rồi được. (...) Ai biết rõ sự hành động của những tay lãnh tụ chăm chăm đuổi chúng ta ra khỏi xứ Đông Dương thì cũng phải công nhận lời tôi nói đó”47.

Để ít nhiều xoa dịu phản ứng của các nghị sĩ cánh tả, Paul Reynaud cũng bèn phải nói: “Nhưng tôi nghĩ rằng nước Pháp sẽ làm trái bổn phận của mình nếu chỉ lo một cách đàn áp mà không lo đến những việc cải cách”48. Ngay lập tức André Marty đập lại gay gắt: “Cải cách bằng đoạn đầu đài!”49. Reynaud phớt lờ sự công kích của Marty, tiếp tục ra sức khoe khoang thành tựu “khai hóa”, “cải cách” của thực dân Pháp ở Đông Dương: “Ở xứ Đông Dương ngày nay canh nông và kỹ nghệ phát đạt không khác gì ở Pháp đây: kia những sở máy dùng đến hàng mấy nghìn thợ, nọ những sở đồn điền dùng đến hàng mấy nghìn cu ly. Xứ Đông Dương ngày nay đã có thể gọi là một liệt cường kinh tế, chớ không phải như xứ Đông Dương ngày trước”50.

Thái độ bất chấp, vừa khăng khăng bảo vệ chính sách đàn áp khốc liệt, vừa cường điệu khoe khoang thành tựu như trên của Bộ trưởng Bộ thuộc địa đã vấp phải sự phê phán kịch liệt của các nghị sĩ là đảng viên Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp.

Nghị sĩ cộng sản André Marty đăng đàn. Trước hết, ông gay gắt lên án việc chính phủ thuộc địa quy kết hàng nghìn người biểu tình bị bắt ở Nghệ-Tĩnh là “tù thường phạm” rồi đày họ đi tận Guyane. Ông khẳng định họ chỉ là những người dân bình thường, đi biểu tình để đòi cơm áo và những quyền lợi cơ bản chính đáng. Vì vậy, không thể xét xử họ như những tù hình sự rồi giết hại họ bằng cách đày đi biệt xứ. “Những tù phạm bị đày đi Guyane cũng như là bị tử hình, mà bị tử hình bằng một cách đau đớn hơn nữa kia. Chúng tôi không thể nào chịu để làm như thế được”51. Đáp trả những lời khoe khoang về thành tựu “cải cách” của Paul Reynaud, André Marty nói: “Này quan Tổng trưởng thuộc địa! Ngài quên nói đến những điều cải cách về độc quyền thuốc phiện và về độc quyền rượu. Như thế là ngài còn muốn dùng hai thứ ấy mà làm cho người Annam mê muội, nằm mãi trong địa vị nô lệ mà tự họ không biết chớ gì!”52.

Đến lượt một đại diện của Đảng Xã hội Pháp, nghị sĩ Marius Moutet phát biểu. Có lẽ Moutet đã chuẩn bị ý kiến của mình rất công phu nên ông đã phân tích sâu sắc những mặt trái của chính sách thực dân hóa của người Pháp đã và đang được áp dụng ở Việt Nam và Đông Dương. Rồi ông khẳng định: “Thưa các ngài, ở Đông Dương hạt giống bất bình đã được gieo quá nhiều rồi. Một đôi điều cải cách nhỏ mọn nói ở diễn đàn này không đủ làm cho tiêu hết được đâu. Cần phải cải cách nhiều điều to lớn kia: như đổi các chế độ, như thay cái “não” của người cầm quyền cái trị”53.

Bàn về chính sách đàn áp của thực dân Pháp ở Đông Dương, Marius Moutet đã đưa cuộc tranh luận đến một tầm vóc khác to lớn và sâu sắc hơn. Ông nói: “Tôi không chống với chính sách “thẳng tay”. Nhưng tôi nhận rằng đã dùng thì phải dùng đối với tất cả mọi người. Ở Đông Dương có lắm người Pháp làm cho dân bản xứ phải hoài nghi công cuộc và mục đích của nước Pháp ở đấy; Đối với những người ấy thì phải dùng chính sách “thẳng tay”54 Moutet chỉ ra cái động cơ tâm lý nằm ẩn sâu trong thái độ và chính sách của thực dân Pháp đối với người bản xứ mà ông gọi là “chế độ chủng tộc giai cấp”. Ông nói: “Chúng tôi nhắc lại rằng tâm lý phần nhiều người Pháp ở Đông Dương thật hết sức đáng phàn nàn. Họ xem họ là “chúa” ở trong một xứ đã xâm chiếm được, xem dân bản xứ là ở dưới xa họ, đáng khinh bỉ, rẻ rúng”55.

Sau những lập luận hệ thống, chặt chẽ, Marius Moutet đi đến chỗ xác quyết lập trường của mình cũng như của Đảng Xã hội Pháp: “Chúng tôi chỉ binh vực chân lý, chỉ lo tìm những nguyên nhân sâu xa của tấn kịch máu chảy thây chồng ở Đông Dương, và nghĩ phương pháp làm cho tấn kịch ấy không còn có nhịp xảy ra nữa”56.

Và đây là lời tuyên bố đanh thép của Marius Moutet - và vì những lời này ông sẽ được giới chính khách thực dân bảo thủ mệnh danh là “thủ lĩnh chiến tranh của người bản xứ”: “Chúng tôi tuyên bố to lên rằng: Nếu nước Pháp chỉ còn một cách là phải giết, phải chém, phải dùng vũ lực mới có thể ở lại trong đất Đông Dương được, thì thà cuốn gói về ngay đi là hơn”57.

Trong phần còn lại của bài phát biểu, Marius Moutet phân tích và phê phán mạnh mẽ các phiên tòa do Hội đồng Đề hình thực dân lập ra và xét xử các chiến sĩ yêu nước và cách mạng Việt Nam. Ông không những vạch trần các thủ đoạn biến chính trị phạm thành thường phạm để trừng phạt họ rất nặng nề, các phiên tòa còn trắng trợn vi phạm nhân quyền và pháp luật tố tụng của nước Pháp v.v.. Những lời cáo buộc của Moutet vấp phải sự phản ứng dữ dội của các chính khách phái hữu, như Ernest Outrey, Paul Reynaud và hai cựu Bộ trưởng Bộ thuộc địa là Francois Piétri và Théodore Steeg. Phía cánh tả có Alexandre Varenne cũng lên tiếng, sát cánh cùng Moutet.

Cuộc tranh luận ngày càng gay gắt, sau đó có cả sự tham gia của một chính khách cánh tả nổi tiếng khác là Léon Blum, người “lấy làm đau đớn và hổ thẹn” khi phải nói to trước Hạ nghị viện Pháp rằng: “Nếu Chính phủ cứ khăng khăng một mực dùng vũ lực, dùng sự khủng bố mà giữ được xứ Đông Dương, thì tôi sẽ tán đồng ý kiến bỏ hết cả các thuộc địa”58.

Lời tuyên bố của Léon Blum gây chấn động mạnh chính giới chóp bu Pháp. Đây là lần thứ ba trong cuộc tranh luận này các chính khách phái tả đòi thủ tiêu chế độ thực dân Pháp. Lập tức, phản ứng của các chính khách thực dân phái hữu cũng rất quyết liệt. Bộ trưởng Bộ thuộc địa Paul Reynaud nói: “Ông Léon Blum này, tôi chắc ông biết rằng hiện nay các nước trên thế giới đều có một kẻ cừu địch chung. Chúng tôi, chính phủ, quyết chiến với kẻ cừu địch ấy đến kỳ cùng. Vừa chiến với kẻ cừu địch ấy, vừa thi hành những điều cải cách. Đó là công chuyện chúng tôi làm”59.

“Kẻ cừu địch” mà Paul Reynaud nói đó chính là phong trào cộng sản thế giới. Như thế là ông ta đã khoác thêm cho chính sách đàn áp “thẳng tay” của thực dân Pháp một tấm áo choàng pháp lý mới (bên cạnh việc “bảo vệ lương dân” và bảo vệ trật tự thực dân ở thuộc địa) - đó là chống chủ nghĩa cộng sản.

Ông Blum cũng đáp trả với giọng điệu còn gay gắt hơn: “Phải! Nhưng không được dùng người An Nam làm cái thớt bằm. Không được giết người An Nam!”60.

Paul Reynaud liền trả lời: “Đó là một điều khó. Phải chi kẻ cừu địch kia trực tiếp với chúng ta thì tiện biết là bao nhiêu. Nhưng không thế, họ chỉ ở đâu bên Quảng Châu kia mà hô: đả đảo đế quốc Pháp. Dân An Nam nghe theo họ nổi lên chống với chúng ta thành ra bị giết.” Và ông ta tuyên bố trắng trợn: “Dầu các ông có công kích chính sách đó mặc lòng, chúng tôi cũng cứ thi hành”61.

 

3. Một số nhận định

Chưa bao giờ có những cuộc tranh luận kéo dài và nảy lửa như thế tại Viện Dân biểu Trung Kỳ và sau đó là tại Hạ nghị viện Pháp về chính sách đối với xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy cuối cùng các cuộc tranh luận rơi vào thế bế tắc, nhưng nó đã cho thấy rất nhiều điều quan trọng.

Thứ nhất, bản thân các cuộc tranh luận tại nghị trường, đặc biệt là cuộc tranh luận tại Hạ nghị viện của giới chính khách chóp bu Pháp nổ ra vào ngày 23-2-1931 đã cho thấy sức ảnh hưởng vô cùng to lớn của các cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam đầu năm 1930, đặc biệt là của cao trào cách mạng 1930-1931. Đây là một bằng chứng lịch sử hiển nhiên cho thấy tầm vóc và ý nghĩa to lớn của cao trào cách mạng: không những chỉ làm rung chuyển tận gốc rễ chế độ thực dân của người Pháp ở Đông Dương mà còn gây chấn động mạnh chính trường và công luận nước Pháp. Trong toàn bộ thế giới thuộc địa lúc đó, sau phong trào đấu tranh sục sôi, bền bỉ của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi và của Đảng Quốc đại, thì chỉ có cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam 1930-1931 tạo được những “đại địa chấn” như thế trong chính giới và công luận “mẫu quốc”.

Thứ hai, qua diễn biến và nội dung của các cuộc tranh luận, có thể thấy rõ mức độ bảo thủ, ngoan cố và phản động đến như thế nào của giới chính khách thực dân cánh hữu ở Pháp cũng như ở Đông Dương. Mặc cho tất cả những sự phê phán hay công kích dữ dội của các nhóm chính khách cánh tả, tiến bộ, hay cả sự thỉnh cầu của các ông nghị viên đại diện cho giới thượng lưu bản xứ ở Trung Kỳ, giới chính khách thực dân, mà ở đây tiêu biểu là Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Paul Reynaud và Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol, đều trước sau kiên quyết bảo vệ đến cùng chính sách đàn áp tàn bạo đối với phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Thậm chí Reynaud còn tuyên bố rõ, đó là “một cuộc chiến tranh giữa chúng ta và đảng cộng sản”. Lời tuyên bố đó tự nó đã vạch trần bản chất chính trị tàn bạo và phản động của nền thống trị thuộc địa của người Pháp ở Việt Nam cũng như ở các nơi khác trên thế giới.

Thứ ba, qua các cuộc tranh luận tại Hạ nghị viện Pháp có thể thấy rõ thái độ của các nhóm chính khách “phái tả” đối với chính sách thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương và Việt Nam. Các chính khách cộng sản Pháp là những người luôn tỏ ra đối lập tuyệt đối với nhóm chính khách thực dân bảo thủ. Họ không ngần ngại đấu tranh và bộc lộ công khai, mạnh mẽ tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản đối với nhân dân lao động và Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhóm chính khách là đại diện của Đảng Xã hội Pháp, tuy về hình thức có vẻ ôn hòa hơn, nhưng trong nội dung lập luận, họ cũng tuyên chiến quyết liệt với các chính khách thực dân Pháp bảo thủ. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở đây là: họ đấu tranh trước hết là để bảo vệ danh dự và niềm tự hào của nước Pháp, rồi sau đó mới đến mục tiêu là bảo vệ công lý và vì sự khai phóng của các dân tộc thuộc địa. Những tuyên bố của họ làm chấn động công luận Pháp và cho dù không thay đổi được căn bản chính sách thuộc địa của nước Pháp, đấu tranh của họ cũng có tác dụng nhất định góp phần kìm chế các biện pháp khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương. Thái độ của các chính khách, như Marius Moutet, Léon Blum, Prossard, Alexandre Varenne v.v.. cho thấy khả năng thương lượng, đối thoại giữa họ với các lực lượng yêu nước và cách mạng ở Việt Nam - đương nhiên chỉ trong những điều kiện lịch sử xác định nào đó.

Điều cần lưu ý đặc biệt ở đây là: giới chính khách cánh tả Pháp, dù đại diện cho Đảng Cộng sản Pháp hay cho Đảng Xã hội Pháp, và dù họ thậm chí lên tiếng đòi “bỏ hết các thuộc địa”, nhưng không ai trong số họ nhìn nhận tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, thẳng thắn ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Đây chính là giới hạn tối đa trong lập trường chính trị của phái tả ở Pháp đối với vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khác trong Đế chế Pháp.

Thứ tư, điều có ý nghĩa to lớn khi diễn biến và nội dung các cuộc tranh luận nói trên lại được báo Tiếng Dân của chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Khánh đăng tải khá kịp thời và đầy đủ bằng chữ quốc ngữ. Lúc đó, chỉ có tờ báo này và báo Phụ nữ tân văn là có đủ dũng cảm và sự khôn khéo nghề nghiệp để đưa tin về Khởi nghĩa Yên Bái và cao trào cách mạng 1930-1931. Với việc nội dung các cuộc tranh luận của chính giới Pháp được đưa tin cùng với tin về các cuộc đấu tranh của nhân dân lúc đó đã góp phần quan trọng làm cho công luận, nhân dân trong nước hiểu rõ hơn về phong trào cách mạng, hiểu rõ hơn về nội tình chính giới Pháp lúc đó, nhất là bộ mặt thật của các nhóm chính khách thực dân bảo thủ Pháp.  

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 10, 11/2020

1. Việc khai thác nguồn thông tin chủ yếu từ báo Tiếng Dân - tờ báo công khai, tiến bộ bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ở khu vực miền Trung do nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút (1927-1943). Đây cũng là tờ báo dám đưa tin đều đặn và chi tiết về cuộc Khởi nghĩa Yên Bái (2-1930)  về cao trào cách mạng 1930-1931 cũng có ý nghĩa quan trọng, bởi nó gián tiếp chỉ ra một sự thật lịch sử khác: khi đó công luận Việt Nam và Pháp đã nhận được thông tin như thế nào về các cuộc đấu tranh này của nhân dân Việt Nam

2. Cùng với làng Cổ Am, hàng chục làng xóm khác ở Phụ Dực (Thái Bình), Kiến An, Phú Thọ, Yên Bái và nhiều địa phương khác cũng bị đốt phá, triệt hạ. Xem: Hoàng Văn Đào: Việt Nam Quốc dân Đảng-Lịch sử đấu tranh cận đại, 1927-1954, Cơ sở Xuất bản Yên Bái, Westminster, California, 1990, q.I, tr.134

3. Roubaud, Louis (1931), Vietnam-la tragédie indo-chinoise, Librairie Valois, Paris, tr.143-144. Xem thêm: Hoàng Văn Đào: Việt Nam Quốc dân Đảng, sđd, tr.135

4. Lời của Phan Bội Châu trong bài thơ “Bài ca chúc tết thanh niên” đăng trên báo Tân thế kỉ số ra ngày 3-2-1927

5. Xem: Tiếng Dân số 260 (5-3-1930) đưa tin về việc thẩm vấn Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng khác

6, 7. Tiếng Dân, số 263, ngày 12-3-1930. TG nhấn mạnh

8. Tiếng Dân, số 266, ra ngày 23-3-1930. TG nhấn mạnh

9. Xem Tiếng Dân các số: 259 (26-2-1930), 260 (1-3-1930), số 261 (5-3-1930)

10. Tiếng Dân, số 317, ngày 17-9-1930

11. Để tránh bị kiểm duyệt xóa bỏ, tờ Tiếng Dân cũng rất khôn ngoan khi luôn luôn dẫn lại tin của các tờ báo công khai tiếng Pháp, thân chính quyền thực dân, như France Indochine, A.R.I.P, Le Depêche  vv.. Tiếng Dân, số 317, ngày 17-9-1930

12. Súng cối xay (autos miltralleuses): là cách gọi hồi đó với một loại súng trung liên của Pháp có ổ băng đạn hình tròn. Đây là loại súng liên thanh hiện đại nhất lúc bấy giờ, có thể bắn ra 530 viên đạn mỗi phút và có độ sát thương rất cao

13, 14. Tiếng Dân, số 317, ngày 17-9-1930

15, 16, 17, 18, 19, 20. Tiếng Dân, số 318, ngày 20-9-1930

21, 22. Ý nói chế độ quân chủ lập hiến - TG

23, 24. Ý nói các vị quan chức, nghị viên - TG

25. Tiếng Dân, số 319, ngày 24-9-1930

26, 27. Tiếng Dân, số 321, ngày 1-10-1930

28. Tiếng Dân, số 322, ngày 5-10-1930. 

30. Tiếng Dân, số 322, ngày 5-10-1930. Cột tin này của báo bị kiểm duyệt xóa bỏ gần hết, chỉ còn lại đoạn đầu và đoạn cuối như vậy

31. Trong số 19 sinh viên bị trục xuất từ Pháp về Việt Nam có: Trần Văn Giàu, Huỳnh Văn Phương, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Đặng Bá Lĩnh, Lê Văn Thử, Trịnh Văn Phú, Bùi Đức Kiên, Vũ Liên, Hồ Văn Ngà, Lê Bá Cang, Nguyễn Văn Tân. Nguyễn Văn Tạo bị trục xuất vào tháng 6-1931. Xem: Lê Văn Thử: Mười chín sinh viên Việt Nam bị trục xuất, Nxb. Nam Việt, Sài Gòn, 1949; Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism 1925-1945, Cornell University Press, Ithaca, 1982, tr. 194

32, 33, 34. Tiếng Dân, số 382, ngày 9-5-1931

35. Cuốn Vietnam - la tragédie indo-chinoise của Louis Roubaud do Librairie Valois xuất bản tại Paris năm 1931

36. Tiếng Dân, số 382, ngày 9-5-1931

37. Sau đó Frossard còn nhấn mạnh: “Tôi xin nhắc lại rằng chúng ta yêu nước chúng ta nhất vì là một nước sáng tạo ra các tư tưởng mới mẻ. Vậy chúng ta muốn nước Pháp làm sao cho một ngày kia hai chữ “văn minh” với hai chữ “thực dân” sẽ đồng một nghĩa. Ngày ấy sẽ là ngày nhân loại đã bước lên nơi ánh sáng vậy”. Tiếng Dân, số 382, ngày 9-5-1931

38, 39, 40, 41, 42. Tiếng Dân, số 383, ngày 13-5-1931

43, 44, 45, 46. Tiếng Dân, số 384, ngày 16-5-1931

47. Tiếng Dân, số 385, ngày 20-5-1931

48, 49. Tiếng Dân, số 387, ngày 27-5-1931

50, 51, 52, 53, 54. Tiếng Dân, số 388, ngày 30-5-1931

55, 56. Tiếng Dân, số 389, ngày 3-6-1931

47, 58, 59, 60, 61. Tiếng Dân, số 392, ngày 13-6-1931.