Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đây không chỉ là lực lượng kế thừa, phát triển những giá trị lý luận truyền thống mà còn là chủ thể sáng tạo, ứng dụng lý luận vào thực tiễn, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết tập trung phân tích các yếu tố quốc tế và trong nước tác động đến việc phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay, từ đó xác định những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ nhằm đáp ứng đòi hỏi trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Cán bộ khoa học trẻ; khoa học lý luận chính trị; yêu cầu phát triển; yếu tố tác động
Văn kiện Đại hội XIII (2021) của Đảng khẳng định: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc”1. Điều đó cho thấy khoa học lý luận chính trị đã, đang và sẽ ngày càng có vai trò hết sức quan trọng, cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng định hướng cho hoạt động thực tiễn nói chung, hoạt động chính trị - xã hội nói riêng của con người. Để khoa học lý luận chính trị tiếp tục khẳng định được vị thế của mình và có những đóng góp lớn lao đối với đất nước nhất định phải xây dựng, bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ khoa học lý luận chính trị hội tụ đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Do đó, việc phát triển đội ngũ cán bộ này về mọi mặt có ý nghĩa hết sức quan trọng, cần phải được thực hiện từ sớm, ngay từ khi họ còn là những cán bộ trẻ, đang “chập chững” bước đi trên con đường nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị.
1. Các yếu tố tác tác động đến việc phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay
Yếu tố quốc tế:
Thứ nhất, sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tác động không nhỏ đến tâm trạng của hàng triệu người trên thế giới, nhất là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, khiến cho CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, đặt ra nhiều vấn đề khó khăn phức tạp trên phương diện lý luận và thực tiễn đối với các nước tiếp tục lựa chọn con đường đi lên CNXH. Nhân cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc tăng cường thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, tiến hành chiến tranh tâm lý, chính trị, văn hóa, lợi dụng giao lưu văn hóa, kinh tế để tuyên truyền, kích động, làm lung lay nền móng tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tiếp tục điều chỉnh để thích nghi với hình thức là mô hình chủ nghĩa tư bản trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới vừa đem lại hào quang không thể phủ nhận, như kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế hiện đại, năng suất lao động được cải thiện, ngoại thương rộng mở, chuyển giao công nghệ đạt quy mô lớn, nhiều quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản cả trên phương diện phương thức sản xuất và chế độ xã hội, tạo ra không gian chiến lược cho những bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản... Ở một góc độ nào đó, những yếu tố này có tác động đến tâm tư, tình cảm, nhận thức chính trị của đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, trong thời đại ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã dẫn đến những thay đổi trên nhiều mặt đời sống xã hội với hai đặc trưng cơ bản: sự biến đổi nhanh trên các lĩnh vực ở mọi nơi, mọi lúc và toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ về kinh tế và công nghệ, trong đó nổi bật là công nghệ thông tin - viễn thông, tạo ra một thế giới cạnh tranh và hợp tác về mọi phương diện. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ nói chung, tin học nói riêng đã dẫn đến sự “bùng nổ thông tin” với các phương tiện kỹ thuật hiện đại, tốc độ truyền bá thông tin nhanh chưa từng thấy dẫn đến sự hình thành xã hội thông tin và xu hướng phát triển kinh tế tri thức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách mạng khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến cơ cấu xã hội, làm biến động các giá trị văn hóa, tinh thần, tư tưởng của con người. Một mặt, nó tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua quá trình giao lưu, hội nhập về văn hóa, trí tuệ, kinh nghiệm, chuyển giao tri thức; mặt khác, cũng chính quá trình này sẽ đặt các quốc gia trước những nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, quyền độc lập tự chủ quốc gia, cũng như những ảnh hưởng do sự du nhập của những tệ nạn tiêu cực như: ma túy, mại dâm, lối sống đồi trụy, chủ nghĩa khủng bố v.v... khiến cho nhiều giá trị truyền thống của các dân tộc có nguy cơ bị xói mòn, lối sống và cách suy nghĩ, đặc biệt là của thế hệ trẻ trên thế giới ngày càng có nhiều điểm chung và chịu sự tác động, chi phối của lối sống, nếp suy nghĩ của lớp trẻ ở các nước tư bản phát triển. Đây là những yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, những thập niên tới, thế giới tiếp tục đối mặt với những vấn đề nan giải toàn cầu mà từng quốc gia không thể tự giải quyết được, do đó cần phải thúc đẩy hợp tác toàn cầu dưới hình thức khác nhau để ứng phó với các mối đe dọa nan ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Nguy cơ chạy đua vũ trang, xung đột quân sự, tranh chấp lãnh thổ, nhất là chủ nghĩa cường quyền, nước lớn ngày càng gia tăng. Các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, suy thoái môi trường, dịch bệnh, an toàn lương thực, cạn kiệt tài nguyên môi trường… khiến các quốc gia phải hợp tác, bắt tay nhau để cùng chung sức hành động. Đây là hàng loạt những vấn đề cấp thiết đang đặt ra và không thể thiếu sự tham gia, nghiên cứu, tìm tòi hướng xử lý của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị nói riêng.
Thứ tư, thế giới ngày nay chứa đựng nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau, trái ngược nhau, thậm chí đối lập nhau, tạo nên những cơ sở lý luận cho các mô hình phát triển phong phú, đa dạng trên toàn thế giới. Tư tưởng tư bản chủ nghĩa phương Tây tiếp tục chiếm ưu thế nhất định ở một số quốc gia; trào lưu xã hội dân chủ đang thắng thế ở nhiều nơi và sẽ có thêm nhiều lực lượng, quốc gia tham gia; chủ nghĩa dân tộc đang hồi sinh mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu; tư tưởng tôn giáo nói chung có thể trở thành nhân tố cạnh tranh trên quy mô toàn cầu; Tư tưởng cộng sản tiếp tục quá trình hồi phục, đổi mới và phát triển trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, chính xác hơn, kết hợp với nhiều tư tưởng tiến bộ của các dân tộc và không ngừng được bổ sung, phát triển, được vận dụng theo nhiều cách thức, cơ chế khác nhau vào từng quốc gia… tất cả đều có những tác động đến tư tưởng, tình cảm, tinh thần của con người, trong đó có đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị.
Như vậy, những diễn biến mới trên trường quốc tế tác động tới đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị, một mặt, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị có điều kiện cập nhật thông tin, kiến thức, thúc đẩy họ không ngừng nâng cao trình độ, nhận thức, nâng cao tính đảng, tính khoa trong nghiên cứu lý luận, có điều kiện mở rộng thông tin, nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học; mặt khác xuất hiện khuynh hướng dao động, hoài nghi về CNXH và chủ nghĩa Mác - Lênin; hoài nghi đối với tính cách mạng, khoa học lý luận chính trị, hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, hoài nghi quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu không có cách tiếp cận, nhìn nhận mới, không đủ năng lực khoa học, chuyên môn để phân tích, đánh giá về sự biến đổi, vận động của thế giới, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị rất dễ dao động, lung lay niềm tin, dần đánh mất bản lĩnh chính trị và nhiệt huyết trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị hiện nay.
Yếu tố trong nước:
Thứ nhất, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay… Những thành tựu qua gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam là những những yếu tố tích cực tác động đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị nói riêng.
Thứ hai, qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được những thành tựu không nhỏ trên mọi lĩnh vực, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”2, đó là những nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào bẫy thu nhập trung bình; sự chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng XHCN; phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống còn diễn biến phức tạp… tất cả đều có tác động lớn đến yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường đã đem lại sự phát triển kinh tế cho đất nước, song mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã bộc lộ, đặc biệt là xu hướng quá đề cao giá trị đồng tiền, quyền lực, lối sống thực dụng dần trở nên phổ biến… đã tác động không nhỏ đến phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị, làm cho mục tiêu sống, lý tưởng, ý thức chính trị bị giảm sút; xuất hiện nhiều sản phẩm khoa học lý luận chính trị mang tính thị trường hóa; những bất cập của thực tế xã hội, trong đó, nạn tham nhũng, sự tha hóa của một bộ phận cán bộ có chức quyền có dấu hiệu trở nên nghiêm trọng... Chính những hình ảnh tiêu cực đó đã dẫn đến sự hoài nghi về lý luận, về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, tác động không nhỏ đến niềm tin vào tương lai của CNXH chủ nghĩa xã hội trong một bộ phận đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, những hạn chế của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung, và đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị nói riêng cũng là những yếu tố tác động không thể xem nhẹ. Tại Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới” đã chỉ rõ: “Một bộ phận trí thức chưa nhận thức đầy đủ vai trò đối với phát triển đất nước, còn thụ động, trông chờ, ngại bày tỏ chính kiến; năng lực, phẩm chất, uy tín chưa đáp ứng yêu cầu”3. Bên cạnh đó, nguồn đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị đang dần bị thu hẹp lại, một bộ phận có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, tư duy mòn, cũ, nặng về nghiên cứu công thức, nhẹ về nghiên cứu phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học; “thói quen” nói một chiều, “nói theo” làm cho một số cán bộ trẻ trong lĩnh vực này giảm sút năng lực tư duy độc lập, tính sáng tạo và bản lĩnh nghề nghiệp vì thế năng lực chỉ đạo, tham mưu còn hạn chế trước những biến đổi, biến động phức tạp của thực tiễn.
2. Yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay
Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi chưa từng có nhưng cũng đang đối diện với những nguy cơ, thách thức phức tạp. Trong bối cảnh như vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có đội ngũ trí thức lý luận nói chung và đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị nói riêng phải đổi mới mạnh mẽ để góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối, của Đảng, chính sách của Nhà nước; tăng cường sự thống nhất trong Đảng, trong hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong xã hội nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Theo đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Yêu cầu về số lượng và cơ cấu:
Thứ nhất, về số lượng. Muốn xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ trên lĩnh vực khoa học chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, từ đó hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 xác định số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân4, trong đó có đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học chính trị. Bởi nếu đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị ít, sẽ không đảm bảo được tính kế thừa và không đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước, vì vậy cần có chiến lược xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị trong tình hình mới. Tại Nghị quyết số 45-NQ/TW chỉ rõ: “Phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”5.
Thứ hai, về cơ cấu. Tại Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014 của Bộ Chính trị “về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” chỉ rõ: “Phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia đầu ngành;… Đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận, từ quy hoạch đến chương trình, nội dung, phương pháp tuyển chọn, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng và sử dụng cán bộ. Hình thành đội ngũ cán bộ đầu đàn và các lớp cán bộ kế tiếp, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”6. Ngày 17-5-2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 587/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2019-2030”, xác định mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Học viện và các trường chính trị cấp tỉnh đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và mục tiêu cụ thể. Giai đoạn đến năm 2025 đội ngũ giảng viên có cơ cấu 4 độ tuổi, bảo đảm sự kế thừa liên lục, trong đó: dưới 40 tuổi chiếm 15%; từ 40 - 50 tuổi chiếm 35 - 40%; từ 50 - 60 tuổi chiếm 35 - 40%; trên 60 tuổi chiếm 5 - 10%. Giai đoạn đến năm 2030, giảng viên chiếm tỷ lệ tối thiểu 65% công chức, viên chức trong từng đơn vị trực thuộc Học viện và mỗi trường chính trị cấp tỉnh tối thiểu 70% trở lên giảng viên được chuẩn hóa, có trình độ chuyên môn phù hợp chức danh, vị trí việc làm, thành thạo phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp giảng dạy hiện đại; 50% chuyên ngành khoa học của Học viện có chuyên gia đầu ngành. Tối thiểu 50% cán bộ khoa học dưới 40 tuổi sử dụng trực tiếp ngoại ngữ (tiếng Anh) trong nghiên cứu và giảng dạy; đủ giảng viên thành thạo tiếng Lào trực tiếp dịch, tham gia đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Mỗi trường chính trị cấp tỉnh có 5 tiến sĩ trở lên, 70% giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên. Hiệu trưởng có trình độ tiến sĩ; phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn và các trưởng khoa có trình độ thạc sĩ trở lên7.
Yêu cầu về chất lượng:
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Đối với phẩm chất chính trị, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị nhất định phải có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia dân tộc và nhân dân. Không ngừng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đối với cán bộ trẻ làm công tác giảng dạy lý luận chính trị, những phẩm chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì chỉ khi người giảng viên có bản lĩnh, lập trường chính trị vững vàng, có niềm tin son sắt vào mục tiêu, lý tưởng thì họ mới có thể kiên định, có động lực truyền thụ những tri thức lý luận một cách khoa học, đồng thời truyền “lửa”, góp phần củng cố niềm tin cho người học.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cũng cần xây dựng và rèn luyện cho mình phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Cho nên phải có sức mạnh mới gánh được trách nhiệm nặng nề, vẻ vang. Sức mạnh đó là đạo đức, Người khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”8. Là những chiến sĩ trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ngừng tu dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng, một lòng một dạ phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước, đặt lợi ích tập thể lên trên, lên trước lợi ích cá nhân. Để có đạo đức cách mạng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị mới làm tốt được công việc Đảng và nhân dân giao phó.
Thứ hai, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị thể hiện trên ba nội dung căn bản, đó là: trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ học vấn được xác định là bậc học cao nhất đã hoàn thành trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Trình độ lý luận chính trị thể hiện ở mức độ hiểu biết về lý luận chính trị ở ba mức cơ bản hiện nay là sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Tương ứng với mỗi chức danh nghề nghiệp, yêu cầu về trình độ lý luận chính trị tương ứng. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, là cấp học, ngành học cao nhất mà đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị đã được đào tạo, trong đó tập trung đánh giá trình độ gắn với các tiêu chuẩn về chức danh nghề nghiệp tương ứng (chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sử dụng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin... theo quy định). Đồng thời, trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị còn thể hiện qua các yếu tố như: khả năng làm chủ kiến thức chuyên môn; nắm vững, trang bị kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành chuyên sâu, hệ thống kiến thức liên ngành, tầm hiểu biết, khả năng luận giải những vấn đề lý luận đặt ra; nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác giáo dục lý luận; nắm bắt về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, đời sống, phong tục, tập quán của địa phương có liên quan đến chuyên môn.
Thứ ba, về kiến thức, năng lực thực tiễn và các năng lực khác. Trước hết, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần quán triệt được tinh thần, quan điểm, lập trường, nguyên tắc, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở, việc nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc, song, Người cũng chỉ rõ cần thấm nhuần là phải học chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp để giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn. Bởi do tính giới hạn lịch sử, dù chủ nghĩa Mác - Lênin có khoa học và đúng đắn đến đâu thì cũng là sản phẩm của lịch sử, do vậy không thể giải đáp đầy đủ, chi tiết mọi vấn đề mà thời đại lịch sử đặt ra. Do vậy việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải nắm được cái cốt, linh hồn đó là phép biện chứng. Đối với cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần quán triệt được tinh thần, quan điểm, lập trường, nguyên tắc, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh sa vào “lý luận suông”, tránh rập khuôn, giáo điều, coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “khuôn vàng thước ngọc” trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị.
Hai là, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần đảm bảo thống nhất giữa tính khoa học và tính đảng trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Khẳng định tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Học thuyết Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh”9. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện ở chỗ đây là học thuyết mở, đòi hỏi luôn được bổ sung và phát triển cho phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử. Ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng được xây dựng dựa trên việc tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với bối cảnh, điều kiện của Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn, đó là một hệ thống tư tưởng, quan điểm khoa học và cách mạng, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Với bản chất khoa học và cách mạng như vậy nên đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị cần phải nắm vững những tri thức khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước để hoàn thiện thế giới quan khoa học, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, hình thành lý tưởng, niềm tin của bản thân mình vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học.
Ở Việt Nam, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường dẫn lối cho hành động cách mạng để lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính đảng là sự kiên trì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, quyết tâm chính trị cao của tổ chức đảng và cá nhân mỗi đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nhằm biến lý tưởng của Đảng thành hiện thực. Tính đảng bản thân nó là khoa học, đối lập với chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí; nó cũng không dung hòa với chủ nghĩa giáo điều. Vì vậy, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị nhất thiết phải đảm bảo thống nhất giữa tính khoa học và tính đảng.
Ba là, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần có năng lực nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn. Cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị có thể là nhà khoa học, có thể là giảng viên cho nên cần có khả năng nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn trong lĩnh vực chuyên môn của mình để bổ sung, hỗ trợ và nâng cao trình độ, phục vụ tốt hơn cho công tác nghiên cứu, giảng dạy. Năng lực tổng kết thực tiễn được biểu hiện cụ thể ở khả năng xác định đúng và trúng vấn đề cần tổng kết thực tiễn; khả năng lập kế hoạch, tổ chức các nguồn lực thực hiện nghiên cứu tổng kết thực tiễn một cách tối ưu nhất, thu thập, phân tích, xử lý thông tin liên quan tới vấn đề tổng kết thực tiễn một cách kịp thời, chính xác, đúng đắn, khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm có tính khái quát cao, khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm vào nghiên cứu, giảng dạy hiệu quả.
Bốn là, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị cần nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn, am hiểu về tình hình trong nước và thế giới, có kiến thức tổng hợp trên nhiều lĩnh vực, có kiến thức thực tiễn phong phú. Đặc biệt, đối với đội ngũ cán bộ khoa học trẻ làm công tác giảng dạy lý luận chính trị cần có năng lực sư phạm, có khả năng truyền đạt tri thức lý luận chính trị hay, hấp dẫn, tránh áp đặt, xơ cứng, giáo điều. Trên nền tảng tri thức lý luận chính trị vững vàng, có khả năng đánh giá, vận dụng hợp lý, kết hợp giữa lý luận với thực tiễn; có khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; năng lực định hướng, dẫn dắt, truyền cảm hứng, niềm tin, lý tưởng cho người học; làm chủ phương pháp giảng dạy tích cực, sử dụng tốt các phương tiện dạy học…
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp. Do đó, việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trẻ trong lĩnh vực khoa học lý luận chính trị đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu chính là yêu cầu cấp thiết, một nhiệm vụ hệ trọng, “then chốt của then chốt”, cần được quan tâm tiến hành thường xuyên, khoa học.

Ngày nhận: 9-5-2025; thẩm định: 12-5-2025; ngày duyệt đăng: 20-5-2025