Lời Ban biên tập: Lịch sử cho thấy, 94 năm qua, từ nhận thức và qua những hoạt động thực tiễn, Đảng đã có những điều chỉnh để đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển. Chủ động sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn để xác định đường lối, lấy sự phù hợp với thực tiễn là tiêu chí để đánh giá tính đúng đắn của đường lối và kịp thời điều chỉnh, bổ sung là bài học kinh nghiệm lịch sử của Đảng. Bài viết nghiên cứu về Đảng điều chỉnh đường lối cách mạng với những sự kiện lịch sử đã minh chứng, với góc nhìn về Đảng dũng cảm nhìn thẳng sự thật, tự chỉnh đốn, theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, để rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh mẽ, chắc chắn và chân chính”.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối, phù hợp, thực tiễn, đổi mới, sáng tạo

1. Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật 

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cả dân tộc bước vào giai đoạn lịch sử mới đất nước thống nhất, non sông thu về một dải, nhân dân phấn khởi, tự tin, tự hào về sự toàn thắng của cách mạng Việt Nam. Đại hội nhận định: "Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn, phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế"1.

Bước ra từ vầng hào quang thắng lợi của cuộc chiến tranh với khí thế “ào ào xốc tới”, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, tưởng chừng chỉ cần một khoảng thời gian ngắn là có thể xây dựng thành công “nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1976) đã kỳ vọng vào “khả năng” đó. Trong niềm say mê chiến thắng, không ai có thể tiên liệu tương lai. Sự nôn nóng muốn có ngay nền kinh tế “thuần nhất xã hội chủ nghĩa” đã dẫn đến việc đẩy nhanh việc thực hiện cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và tập thể hóa nông nghiệp ở miền Nam một cách ồ ạt, vội vã ngay sau ngày giải phóng. Kết quả thu được nhiều lĩnh vực ngược với mong muốn. Mô hình, cơ cấu kinh tế không phù hợp được đặt trên cái nền sản xuất xã hội nghèo nàn lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã dẫn Việt Nam đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Số liệu thống kê cho thấy: Trong giai đoạn 1976 - 1980, tốc độ tăng hằng năm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ là 1,4%; và tổng thu nhập quốc dân (GNI) chỉ tăng 0,4% khi tốc độ tăng dân số hàng năm là 2,24%. Chỉ số giá tiêu dùng so sánh giữa tháng 12 của các năm cho thấy một tốc độ lạm phát phi mã: Năm 1986 tăng 874,7%, năm 1987 tăng 323,1%, năm 1988 tăng 449,4%... Nhiều chỉ tiêu đầy tham vọng của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 thực hiện không đạt. Đáng chú ý nhất là chỉ tiêu về sản lượng lương thực: Kế hoạch đề ra là 21 triệu tấn, chỉ đạt 11,6 triệu tấn - gần bằng mức năm 1976; sản lượng thóc bình quân đầu người giảm từ 211 kg năm 1976 xuống 157 kg năm 19802

Những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng này có thể nêu lên là: Duy trì quá lâu những cơ chế điều hành nền kinh tế đã tỏ ra mất sức sống như: coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, phân bố mọi nguồn lực theo kế hoạch, không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch; không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu; muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội theo hướng thiên về phát triển công nghiệp nặng; thi hành phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân cào bằng - điều này đã triệt tiêu các động lực kích thích sản xuất do ít quan tâm đến lợi ích cá nhân, bao cấp tràn lan gây tâm lý thụ động, ỷ lại…   Nhưng nguyên nhân sâu sa hơn, có thể coi là nguyên nhân của các nguyên nhân, bắt nguồn từ nhận thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng những năm cuối thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX diễn ra ở Việt Nam là có thật và sâu sắc song vì những trở lực trong nhận thức - những “húy kỵ” - về những nguyên tắc cơ bản của mô hình kinh tế cũ như chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (nhất là đất đai), về lao động tập thể, độc quyền của Nhà nước về thương nghiệp và giá cả; về kế hoạch hóa tập trung; về quan niệm rằng tư bản là bóc lột, là đối lập với chủ nghĩa xã hội - mà kinh tế thị trường thì sản sinh ra chủ nghĩa tư bản… cùng với thói quen bao cấp đã hình thành lâu năm càng làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng. Đại hội VI của Đảng đã thẳng thắn, nghiêm khắc nêu ra rằng nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn, khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đại hội nhận định trong những năm 1976-1980, trên thực tế ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981-1985, Đảng chưa cụ thể hóa đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, đã buông bỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và cả về tổ chức thực hiện.

Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.

Cũng vì những sự ràng buộc về quan niệm, nhận thức, không phải thuật ngữ “khủng hoảng” đã được tiếp nhận ngay để có biện pháp ứng phó, để có “thuốc chữa đúng bệnh” mà thoạt đầu mới chỉ dùng những từ “rối ren”, “rối loạn”…, nên cuộc khủng hoảng đó không được dự báo và nhìn nhận kịp thời, dẫn đến việc đưa ra những biện pháp ứng phó và khắc phục có nhiều khó khăn, lúng túng. Về tính chất, đây là cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Cuộc khủng hoảng này đã đặt Đảng trước nhiệm vụ lịch sử hệ trọng và khó khăn: Phải tạo được bước ngoặt sửa sai cơ bản từ đường lối, chính sách, trước hết trên lĩnh vực kinh tế và cả với tổng thể đường lối để đứng vững và phát triển trong chặng đường tiếp theo. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra như một tất yếu, trong bối cảnh trên thế giới cùng diễn ra nhiều cuộc cải tổ, cải cách… ở Liên Xô, ở các nước XHCN Đông Âu và ở Trung Quốc đã diễn ra trước đó (từ năm 1978) đến thời điểm này vẫn còn đang tiếp tục. Ở những nước trong hệ thống XHCN lúc này đều đã hiện rõ những bất ổn của mô hình CNXH đã xây dựng, những biểu hiện khủng hoảng đều đã xuất hiện, báo hiệu nguy cơ sụp đổ đang hiện hữu rất gần.

Ở tầm vĩ mô, dù đã có nhiều cố gắng cải thiện mô hình cũ - với nhiều phong trào, nhiều chiến dịch, giương lên nhiều lá cờ… cả trong kinh tế và trên lĩnh vực tư tưởng, nhưng không đạt kết quả như ý muốn. Trước tình hình ngày càng bế tắc, những bộ óc thực tế đã nhận ra rằng không thể tiếp tục duy ý chí; bắt đầu nhận thấy cách nghĩ của những người đi trước là khả kính nhưng bất khả thi3.

Trong bối cảnh đó, Đại hội VI (1986) của Đảng nhấn mạnh cần phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật4. Đại hội xác định: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế”5.

Từ đó xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến lên phía trước.Tổng kết đánh giá thời kỳ 1976-1986, Đại hội VI (1986) của Đảng nêu rõ: thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV, thứ V và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian của các nhiệm kỳ đại hội đó, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền kinh tế- xã hội, đặt những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Song, chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới. Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985, chúng ta không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Những sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Bên cạnh khẳng định thành tích đã đạt được, Đại hội cũng chỉ rõ hạn chế bất cập: "… tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi, và có nơi nghiêm trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân"4.

Ở các cấp thấp hơn, hội chứng “kinh tế thiếu hụt” ngày càng trầm trọng, lâm vào khủng hoảng, cán bộ nhân dân ở một số địa phương đã tìm cách “phá rào”, luồn lách qua những “khe hở hẹp” của thể chế hiện hành để sản xuất có hiệu quả hơn. Nhìn toàn cục, ban đầu những cuộc “phá rào” từ cơ sở đều không có bài bản, chỉ là những giải pháp cụ thể trong thực tiễn, chưa có người chủ xướng tầm cỡ quốc gia. Nhưng sau một thời gian (từ năm 1979 đến năm 1986) thực tiễn đã chứng minh rằng cần thiết và có thể đổi mới toàn diện. Chính từ thực tiễn đã tạo nên bước chuyển biến quyết định trong tư duy lãnh đạo từ những người giữ cương vị cao nhất của Đảng – được đánh dấu chính thức và mạnh mẽ từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986).

Thực tiễn đã vượt trước chính sách. Thực tiễn sinh động đổi mới ở các cơ sở, các địa phương đã cung cấp tư liệu cho việc hình thành đường lối Đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ những tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn đã tiến đến những bước tháo gỡ lớn về tư duy kinh tế. Nhiều quan điểm bảo thủ, xơ cứng, những định kiến và ngộ nhận về kinh tế hàng hóa, về tư sản, về ngoại bang, về bóc lột đã lùi bước trước cái nhìn thực tế và tự tin hơn về kinh tế thị trường, về hợp tác đa phương và hội nhập, về một sự “cộng sinh” trong môi trường kinh tế mới.

2. Kết quả bước đầu của sự điều chỉnh đường lối (1986-1991)

Sau khi “phá rào” thành công, nhiều “cái hàng rào” đã được xử lý thay vì xử lý “kẻ phá rào”, nhiều đối tượng có thể “bị thổi còi” lại được “cầm còi”. Đó là con đường ngoạn mục từ đột phá đến đổi mới, đến sự phát triển khởi sắc của nền kinh tế. Đặc biệt, một số trường hợp những người đã từng chỉ đạo quyết liệt những chiến dịch “thổi còi” trước đây lại khởi xướng và chỉ đạo việc tháo gỡ, giải thoát cho những người bị “thổi còi”. Đó là đồng chí Trường Chinh - năm 1967 là người quyết định đình chỉ “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc đến năm 1980 đã ủng hộ khoán ở Hải Phòng và những năm 1984-1985 là người đi đầu trong việc tìm tòi đổi mới tư duy. Đồng chí Đỗ Mười - người chỉ huy hai cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc (1958 - 1960) và miền Nam (1978) - khi ở cương vị Chủ tich Hội đồng Bộ trưởng (1988) rất ủng hộ đổi mới và góp phần tạo ra “bước ngoặt” quyết định năm 1989. 

Kết quả đến hết nhiệm kỳ Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) khi đường lối đổi mới ở Việt Nam đã định hình tương đối rõ nét, công cuộc đổi mới đã trải qua nhiều bước đột phá có hệ thống. Trong đó đáng chú ý là:

- Bước đột phá khai mở chấp nhận kinh tế tư hữu và thị trường tự do tồn tại bên cạnh và đồng hành với “thị trường có tổ chức” từ năm 1979 với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa IV.

- Bước đột phá chuyển hẳn sang chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước và đổi mới tư duy kinh tế từ Đại hội VI (1986) của Đảng.

- Hoàn thiện chính sách kinh tế mới, chấm dứt chế độ thống nhất quản lý thu mua phân phối cũ, chuyển nền kinh tế vào cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với Nghị quyết Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989).  

Đó là quá trình khai mở đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, tự chủ mở rộng quan hệ kinh tế đa phương, từng bước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực…

Cùng với ba bước đột phá trên tổng thể nền kinh tế là những “vận động” mạnh mẽ về đường lối trên bốn lĩnh vực:

- Nông nghiệp, sau Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư (ngày 13-1-1981) và Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 5-1-1988), người nông dân đã được giải phóng khỏi những ràng buộc của chế độ tập thể công hữu, chuyển sang chế độ hợp tác kiểu mới. Sức sản xuất trong nông nghiệp đã thật sự được giải phóng bằng việc thực thi chế độ tự chủ của kinh tế hộ nông dân. Năm 1986, Việt Nam phải nhập khẩu 534.000 tấn gạo; năm 1988 còn phải nhập 395.900 tấn, nhưng chỉ những vụ thu hoạch đầu tiên sau “Khoán 10”, cũng những người nông dân Việt Nam đó, trên chính mảnh đất của họ đã từng canh tác lâu đời đã đưa sản lượng lương thực lên gần 20 triệu tấn và còn dành ra 1,4 triệu tấn để xuất khẩu. An ninh lương thực của đất nước được đảm bảo, số lượng gạo xuất khẩu của những năm gần đây luôn giữ vững ở mức 6 - 8 triệu tấn/năm.

- Công thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước không còn bị gò ép vào các hình thức “hợp tác”, “tập thể”. Các hộ cá thể được tự do sản xuất và buôn bán những mặt hàng tiêu dùng thông thường. Luật công ty được ban hành năm 1990 đã xác lập vai trò hợp pháp của kinh tế tư nhân, là bước ngoặt giải phóng sức sản xuất của kinh tế, thương nghiệp ngoài nhà nước.

- Kinh tế đối ngoại với các nước “khu vực II” (ngoài khối SEV - “khu vực I”) được mở rộng. Hoạt động xuất nhập khẩu được nới rộng khỏi những độc quyền của Nhà nước đã tạo thêm nguồn vốn và thị trường tiêu thụ cho sản xuất trong nước.

- Các xí nghiệp quốc doanh được tự chủ hơn với “kế hoạch ba thành phần” bắt đầu từ Quyết định số 25-CP và 26-CP (ngày 21-1-1981). Các xí nghiệp kinh doanh năng động hơn và đã có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thành thị, khai mở thị trường tự do. Năm 1989, Nhà nước xóa bỏ bao cấp qua giá với các xí nghiệp quốc doanh đã đẩy nhanh việc sàng lọc, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, giảm bớt gánh nặng bao cấp để giải “bài toán” doanh nghiệp nhà nước theo hướng “cổ phần hóa”, “công ty hóa” trong giai đoạn sau.

Từ nhận thức đến hành động tháo gỡ những cơ chế ràng buộc, phá bỏ những rào cản để giải phóng sức sản xuất thực chất là sự trở lại với những nguyên lý đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với trình độ của quan hệ sản xuất - mà một thời duy ý chí đã muốn đưa quan hệ sản xuất phát triển vượt trước và hy vọng nó sẽ kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. 

Có thể nói, giai đoạn lịch sử từ Đại hội IV (1976) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VI (1991) của Đảng ghi nhận Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền đã dũng cảm nhìn thẳng sự thật, những hạn chế bất cập về nhận thức, về chủ trương đường lối, quyết tâm đổi mới, đã có giải pháp thuận theo quy luật để vượt qua khủng hoảng, chuyển nền kinh tế vào thế ổn định và phát triển đúng hướng, đạt nhiều thành tựu trong hoàn cảnh khó khăn.  

Thành công đó đã được đánh giá là “kỳ diệu”, “bất ngờ”, “khó hiểu ngay cả với người trong cuộc”. Thành công này cũng được đánh giá là “cao nhất có thể đạt được xét theo những khả năng hiện thực trong điều kiện lịch sử”. Thành công này thuận với ý nguyện của nhân dân và hợp với xu hướng phát triển của thời đại.

Thực tiễn cách mạng sinh động là căn cứ để Đảng Cộng sản Việt Nam điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong đường lối, để đường lối mới phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy thực tiễn phát triển đúng hướng, hợp quy luật. Khi quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn, tự nó đã mang tính khả thi và bao hàm cả sức mạnh để thay đổi cái cũ, tạo lập cái mới, cách làm mới.  

Quá trình lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển của Đảng đã khẳng định rằng: Khi Đảng bám sát thực tiễn đất nước để đưa ra những quyết sách kịp thời lãnh đạo đấu tranh, không rập khuôn, thụ động, giáo điều... thì cách mạng tiến lên, đạt những thắng lợi. Ngược lại, khi Đảng thụ động sao chép những chỉ thị và kinh nghiệm thì những hậu quả để lại thật khó lường.

Thực tiễn cách mạng sinh động là căn cứ để Đảng dũng cảm nhìn thẳng sự thật điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong đường lối, để tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện đường lối mới phù hợp hơn với thực tiễn và thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát triển đúng hướng, hợp quy luật. Khi đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn, tự nó đã mang tính khả thi và bao hàm cả sức mạnh để thay đổi cái cũ, tạo lập cái mới, cách làm mới. Thực tiễn lịch sử giai đoạn 1976-1991, Đảng đã dũng cảm điều chỉnh đường lối và quyết tâm đổi mới đất nước đã là minh chứng sinh động về điều đó.

 

 

Ngày nhận 26-8-2024; ngày thẩm định 26-9-2024; ngày duyệt đăng 6-11-2024

1, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 545 , 346, 458, 547

2. Xem Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn (Chủ biên): Đổi mới ở Việt Nam nhớ lại và suy ngẫm, Nxb Tri thức, H, 2008, tr. 387 – 389

3. Xem thêm Đặng Phong: “Duy tân và Đổi mới”, Tạp chí Xưa & Nay, số 151, 2003, tr. 13 - 15.