Tóm tắt: Xây dựng giai cấp nông dân luôn là chiến lược quan trọng của các đảng cộng sản trên thế giới. Chủ nghĩa cộng sản nhìn nhận giai cấp nông dân vừa là động lực, vừa là đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng. Nhiệm vụ của giai cấp công nhân là phải liên minh với giai cấp nông dân và tổ chức họ thành một giai cấp lớn mạnh. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi vấn đề nông dân là vấn đề cơ bản của cách mạng Trung Quốc và nhận định cách mạng Trung Quốc “về bản chất là một cuộc cách mạng nông dân”1. Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1978 được bắt đầu bằng việc giải quyết vấn đề của nông dân.
Từ khóa: Nông dân Trung Quốc; kinh tế nông thôn; cải cách mở cửa

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trò chuyện với nhà vườn trồng táo ở ngoại vi thành phố Diên An (Thiểm Tây) Ảnh: Tân Hoa xã
1. Tình hình nông dân Trung Quốc trước cải cách và mở cửa
Trước khi bắt đầu cải cách và mở cửa, đời sống người dân Trung Quốc cực kỳ khó khăn. Thống kê của Liên Hợp quốc thời kỳ này cho thấy sản phẩm quốc gia bình quân đầu người hằng năm của Trung Quốc vào năm 1978 chỉ đạt 229 USD, dưới mức nghèo tuyệt đối là 1 USD mỗi ngày2. Năm 1978, Trung Quốc có khoảng 790 triệu nông dân, chiếm 82,1% tổng dân số3. Thu nhập bình quân hàng năm của nông dân chỉ hơn 130 nhân dân tệ, gần 40% nông dân cả nước không đủ ăn4.
Các công xã nhân dân, sản phẩm của quá trình tập thể hóa nông nghiệp cuối những năm 1950, vẫn tồn tại ở nông thôn với đặc điểm là kế hoạch hóa, làm việc theo nhóm và hạch toán thống nhất. Công xã nhân dân vừa là một tổ chức chính trị, vừa là một tổ chức kinh tế, đảm nhiệm hầu hết các chức năng của chính quyền địa phương, từ quản lý và điều hành trường học, bệnh viện, đến tư pháp và trị an. Đồng thời, đảm nhiệm chức năng kinh tế của chính quyền. Nông dân ăn trong nhà ăn lớn, miễn phí. Nhà nước ban hành chỉ tiêu sản xuất cho các công xã nhân dân hằng năm, các công xã này lại ban hành chỉ tiêu theo từng cấp độ. Tất cả quy trình sản xuất đều được kiểm soát bởi tập thể. Thu nhập của nông dân được xác định bằng công điểm. Dù làm nhiều hay ít, làm tốt hay xấu, hệ thống công xã nhân dân đã triệt tiêu tâm huyết, nhiệt tình lao động của người nông dân khiến Trung Quốc phải đứng bên bờ vực nạn đói kéo dài5.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc nhận thấy sẽ không có lối thoát nếu không cải cách phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp Trung Quốc là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, nên cải cách và mở cửa tự nhiên bắt đầu ở nông thôn.
2. Lập hệ thống trách nhiệm hộ gia đình (khoán hộ) đối với nông dân
Đường lối cải cách đối với nông thôn của Đảng Cộng sản Trung Quốc có tác động trực tiếp rõ nhất đến giai cấp nông dân bắt đầu vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Tình trạng khó khăn buộc Trung Quốc phải có cách nhìn mới về địa vị kinh tế của các hộ gia đình nông thôn. Trước đó, vào những năm 1950, nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã ủng hộ các hợp đồng sản xuất dựa trên hộ gia đình hay áp dụng bất kỳ hình thức nào có lợi cho việc tăng năng suất cây trồng.
Từ năm 1974, những “cách làm đầy trí tuệ dân gian” đã âm thầm nảy nở. Tại tỉnh Tứ Xuyên, một số công xã nhân dân ở các huyện Tân Phàm, Long Xương, Phú Thuận, Quảng Hán thực hiện khoán công việc đến tổ sản xuất, có nơi khoán đến hộ. Những đột phá sáng tạo này được nhiều nhà lãnh đạo liên quan chấp thuận bằng cách ngầm ủng hộ6.
Ở tỉnh An Huy, tháng 11-1977, Tỉnh ủy ra “Quy định về một số vấn đề chính sách kinh tế nông thôn" (gọi tắt là Sáu điều của Tỉnh ủy), nhấn mạnh mọi công tác ở nông thôn phải lấy sản xuất làm trọng tâm; tôn trọng quyền tự chủ của các nhóm sản xuất; cho phép nông dân tham gia vào các hoạt động kinh doanh phụ hợp pháp của gia đình và các sản phẩm có thể được bán ở chợ; các nhóm sản xuất thực hiện hệ thống trách nhiệm và công việc đồng áng vốn chỉ cần cá nhân thực hiện thì có thể giao cho cá nhân7. Cho dù đã có văn bản trên, cuộc họp của các hộ nông dân làng Tiểu Cương, huyện Phượng Dương, tỉnh An Huy, vẫn tổ chức kín đáo vào đêm khuya ngày 24-11-1978. Tại cuộc họp, đại diện của 18 hộ đã ký vào bản hợp đồng giao khoán đất tập thể cho các hộ gia đình. Ngay trong đêm, đất đai, trâu bò, nông cụ của đội sản xuất được chia cho 18 hộ theo số lượng lao động từng hộ8.
Tháng 11-1977, trong chuyến khảo sát ở tỉnh Quảng Đông, Đặng Tiểu Bình đã chỉ ra rằng “nhiều chính sách đã có hiệu quả trong quá khứ và đã được chứng minh là tốt trong nhiều năm phải được khôi phục”9.
Tháng 12-1978, HNTƯ 3, khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc có quan điểm thận trọng với cách làm mới trên lĩnh vực quản lý kinh tế nông nghiệp, nhưng nêu rõ rằng khuyết điểm quan trọng nhất của hệ thống quản lý kinh tế là quyền lực quá tập trung. Cần mạnh dạn phân cấp để chính quyền địa phương, các doanh nghiệp có quyền tự chủ hơn trong quản lý và vận hành; tinh giản các cơ quan hành chính kinh tế ở mọi cấp, chuyển giao quyền hạn của họ cho các công ty chuyên nghiệp hoặc liên doanh. Hội nghị xác định toàn Đảng phải tập trung mọi nỗ lực chính vào việc phát triển nông nghiệp càng nhanh càng tốt. Hội nghị chỉ rõ “đời sống của nhân dân thành thị và nông thôn phải từng bước được cải thiện trên cơ sở phát triển sản xuất, kiên quyết phản đối thái độ quan liêu, thờ ơ với những vấn đề bức xúc trong nhân dân”10. Hội nghị công tác Trung ương trước kỳ họp này cũng đã thông qua Quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về “Một số vấn đề liên quan đến việc đẩy nhanh phát triển nông nghiệp”, chủ trương nới lỏng chính sách, thiết lập hệ thống trách nhiệm sản xuất nông nghiệp, cho phép giao khoán công việc cho các nhóm lao động, tính toán thù lao dựa trên sản lượng và thực hiện khen thưởng cho sản xuất vượt mức11.
Ngày 31-5-1980, Đặng Tiểu Bình có bài phát biểu ủng hộ “hệ thống trách nhiệm hộ gia đình” ở tỉnh An Huy, gây ra một sự tác động lớn và mọi người trở nên táo bạo hơn. "Hệ thống trách nhiệm hộ gia đình" đã chuyển từ bí mật sang công khai12.
Hệ thống trách nhiệm hộ gia đình thực hiện nhiều hình thức quản lý hợp đồng khác nhau với nông dân nhưng không làm thay đổi quyền sở hữu tập thể về đất đai và các tư liệu sản xuất cơ bản khác. Cách làm này chuyển người nông dân từ “không chịu trách nhiệm về hộ gia đình” thành “có trách nhiệm hộ gia đình” và nhanh chóng được áp dụng tại hầu hết các địa phương trên cả nước. Cách khoán này khôi phục và mở rộng quyền quyết định của các công xã nhân dân, các đội và nhóm sản xuất của nông dân; khôi phục sản xuất phụ của gia đình và tập thể, các hội chợ nông thôn; giúp nông dân được tự chủ sản xuất và quản lý. Quy tắc “nộp đủ cho Nhà nước, để lại đủ cho tập thể, phần còn lại là của các bạn” giúp người nông dân không còn phụ thuộc vào “nồi cơm lớn”, các kiểu phân phối tập thể theo chủ nghĩa bình quân, làm rõ mối quan hệ trách nhiệm, quyền và lợi ích của nhà nước, tập thể và hộ nông dân, “giải phóng nông dân khỏi nền kinh tế kế hoạch hóa truyền thống và hệ thống công xã nhân dân, huy động rất nhiều sự nhiệt tình của nông dân trong sản xuất và quản lý, đồng thời cũng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh chóng”13.
3. Chỉ đạo thực hiện phát triển nông nghiệp bằng những “văn kiện số 1” ban hành hằng năm
Sau ba năm thực hiện hệ thống trách nhiệm hộ gia đình trong nông nghiệp, đến cuối năm 1980, trên cả nước Trung Quốc, 90% các tổ sản xuất ở nông thôn đã hình thành các tổ chức nông nghiệp tự chủ khác nhau. Vấn đề đặt ra là cần tổng kết, giải đáp những câu hỏi của thực tiễn sản xuất để tiếp tục cải thiện và ổn định cách làm mới. Cuối tháng 12-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức Hội nghị toàn quốc về công tác nông thôn. Biên bản ngày 1-1-1982 khẳng định tính đúng đắn của hệ thống trách nhiệm khác nhau đang được thực hiện, bao gồm thù lao theo hạn ngạch cố định cho hợp đồng quy mô nhỏ, thù lao theo sản lượng cho hợp đồng chuyên môn hóa, gắn sản lượng với lao động, hợp đồng sản xuất với hộ gia đình và nhóm, … “đều là các hệ thống trách nhiệm sản xuất của nền kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa”. Đây chỉ là thay đổi phương thức quản lý, về cơ bản là quản lý theo hộ, mỗi hộ tự chịu trách nhiệm về lãi, lỗ của mình. Tuy nhiên do dựa trên chế độ công hữu về đất đai … “vì vậy, khác với kinh tế cá thể tư nhân nhỏ trước khi tập thể hóa, nó là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế nông nghiệp xã hội chủ nghĩa; cùng với sự phát triển của năng suất, nó sẽ dần phát triển thành nền kinh tế tập thể hoàn thiện hơn”14.
Biên bản Hội nghị toàn quốc về công tác nông thôn chính là Văn kiện số 1 ban hành năm đầu tiên, (sau đó được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành hằng năm, trong đó, đợt đầu đến năm 1986), để chỉ đạo công tác nông nghiệp, nông thôn. Cả 5 văn kiện số 1 đợt đầu này “là các văn kiện mang tính chương trình cho cải cách nông thôn Trung Quốc”, “đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và củng cố hệ thống trách nhiệm hộ gia đình ở vùng nông thôn Trung Quốc, đồng thời có những đóng góp đáng kể cả về lý thuyết và thực tiễn vào việc đào sâu cải cách nông thôn và thúc đẩy thị trường hóa nền kinh tế nông thôn”15.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 9-1982, đánh giá cao những thành quả bước đầu của hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, coi đây là một việc khắc phục những sai lầm “tả phái” tồn tại từ lâu trong lĩnh vực này và nhận định “Trong nhiều năm, nông dân không được hạnh phúc như ngày nay. Điều này đã góp phần rất lớn vào việc khởi đầu một bước ngoặt tốt đẹp hơn trong toàn bộ tình hình kinh tế và thậm chí là toàn bộ tình hình chính trị”. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Nếu nông nghiệp phát triển, chúng ta có thể giải quyết các vấn đề khác dễ dàng hơn”16. Đại hội nhận định năng suất lao động và tỷ lệ sản phẩm có thể bán được trong nền nông nghiệp của Trung Quốc đều khá thấp; khả năng chống chịu thiên tai của Trung Quốc vẫn còn khá hạn chế; và đặc biệt là mâu thuẫn giữa dân số đông và tình trạng thiếu đất canh tác ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy, Đại hội chủ trương trong khi kiểm soát chặt chẽ sự gia tăng dân số, bảo vệ mọi nguồn tài nguyên nông nghiệp và duy trì cân bằng sinh thái, Trung Quốc phải làm tốt hơn trong xây dựng vốn nông nghiệp, cải thiện điều kiện sản xuất nông nghiệp, thực hành canh tác khoa học, giành được năng suất cao hơn các loại ngũ cốc và cây trồng thương mại từ diện tích hạn chế và bảo đảm phát triển toàn diện lâm nghiệp, chăn nuôi, nghề phụ và nghề cá để đáp ứng nhu cầu mở rộng công nghiệp và nâng cao mức sống cho người dân17.
Việc thực hiện hệ thống trách nhiệm hộ gia đình làm lung lay căn bản hệ thống công xã nhân dân và mô hình tổ chức, quản lý kinh tế tập thể; đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi hệ thống quản trị cơ sở nông thôn và các tổ chức kinh tế. Quyền tự chủ của nông dân được mở rộng. Kinh tế tập thể tiếp tục suy yếu. Một số tổ chức cơ sở của công xã nhân dân bị tê liệt.
Văn kiện số 1 thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc vụ viện Trung Quốc “Một số vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế nông thôn hiện nay”, công bố ngày 2-1-1983, tiếp tục xác định sự thành công của hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, đánh giá đây là sáng tạo vĩ đại của nhân dân, là bước phát triển mới của lý luận Mác-xít qua thực tiễn Trung Quốc. Văn kiện này khẳng định “bây giờ hướng đi đã rõ ràng, con đường đã rộng mở và quần chúng đã hướng về phía trước. Vấn đề chính mà chúng ta đang phải đối mặt là nhiều đồng chí thiếu sự chuẩn bị đầy đủ về mặt tư tưởng cho sự thay đổi lịch sử này và một số cải cách về thượng tầng kiến trúc không theo kịp nhu cầu thay đổi về cơ sở kinh tế. Nếu tình hình này không thay đổi, thì nhiệt tình vốn đã cao của người nông dân có thể lại giảm sút và nền kinh tế nông thôn vốn đã năng động có thể bị bóp nghẹt. Các ban ngành của Đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo các cấp phải phấn đấu tư duy cởi mở hơn, mạnh dạn hơn trong cải cách, thực tế hơn trong công tác, nhiệt tình và chủ động phục vụ nhân dân, cơ sở và sản xuất, tận tâm thực hiện đường lối, nguyên tắc và chính sách …, dựa vào 800 triệu nông dân và đông đảo trí thức, góp phần xây dựng nông thôn mới có trình độ văn minh vật chất và tinh thần cao, làm cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở nông thôn ngày càng phồn vinh và phát triển”18. Văn kiện cũng thông báo về việc sẽ tách chức năng hành chính và chức năng xã hội của công xã nhân dân.
Ngày 12-10-1983, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành Thông báo về việc thực hiện tách quản lý hành chính khỏi các công xã nhân dân, thành lập chính quyền thị trấn, các ủy ban thôn. Trong khi xây dựng lại hệ thống tổ chức chính quyền nông thôn, các tổ chức kinh tế hợp tác khu vực dựa trên sở hữu toàn dân về đất đai được thành lập trên cơ sở tự nguyện của quần chúng nhằm thực hiện sự tách bạch giữa hành chính và kinh tế. Cải cách này trao cho người dân quyền tự chủ trong công việc của thôn; đồng thời làm rõ hơn mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị cơ sở với các tổ chức kinh tế tập thể nông thôn.
Ngày 1-1-1984, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành Văn kiện số 1 thứ ba “Thông báo về công tác nông thôn năm 1984” với trọng tâm là nâng cao năng suất, thông thoáng lưu thông, phát triển sản xuất hàng hóa trên cơ sở ổn định và hoàn thiện hệ thống trách nhiệm hộ gia đình. Các biện pháp được đưa ra, trong đó coi trọng việc tiếp tục ổn định và hoàn thiện hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, giúp nông dân mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở quản lý gia đình; Tăng cường các dịch vụ xã hội và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nông thôn; kiên trì nguyên tắc kinh tế kế hoạch là chủ thể, điều tiết thị trường là phụ trợ, kiên trì chính sách hợp tác nhà nước, tập thể và cá nhân, tiếp tục cải cách chế độ thương mại nông thôn, tiếp tục chấn hưng kinh tế nông thôn; chấm dứt việc đánh thuế vô lý đối với nông dân, giảm bớt gánh nặng cho họ và bảo đảm các tiện ích công cộng hợp lý ở vùng nông thôn; sẽ ngày càng nhiều người rời bỏ nghề nông để tham gia vào lâm nghiệp, đánh bắt cá… và một bộ phận lớn sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp nhỏ và dịch vụ ở thị trấn nhỏ. Phải khắc phục tình trạng phát triển lâm nghiệp, thủy sản chưa đủ mạnh, cung ứng hàng hóa còn eo hẹp; Tăng cường sự lãnh đạo công tác nông thôn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, bồi dưỡng nhân tài xây dựng nông thôn; hợp đồng đất đai phải lâu hơn 15 năm; trân trọng, chăm sóc, hỗ trợ tích cực cho những hộ nông dân đi đầu trong công cuộc làm giàu, phát triển.
Ngày 1-1-1985, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành Văn kiện số 1 thứ tư, quy định 10 chính sách thúc đầy kinh tế nông thôn. Đáng chú ý là các chính sách như nhà nước sẽ không ban hành nhiệm vụ mua sắm thống nhất đối với các sản phẩm nông nghiệp, mà sẽ đặt hàng theo hợp đồng tùy các trường hợp khác nhau. Không đơn vị nào được phép ban hành kế hoạch sản xuất bắt buộc cho nông dân. Nhà nước sẽ tích cực giúp đỡ các vùng nông thôn điều chỉnh cơ cấu ngành. Thực hiện chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế cho doanh nghiệp trên địa bàn thị trấn. Khuyến khích chuyển giao công nghệ và thu hút nhân tài. Cán bộ khoa học ở thành phố được nghỉ không lương, xin về nông thôn làm việc,… Chế độ khoán ở nông thôn phải theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và yêu cầu của kinh tế hàng hóa. Hệ thống trách nhiệm hộ gia đình gắn liền thù lao với sản lượng và hệ thống canh tác hộ nông dân sẽ không thay đổi trong thời gian dài; một số nền kinh tế hợp tác xã có thể áp dụng phương pháp quản lý cổ phần chung và phân phối cổ tức. Mở rộng hơn nữa giao lưu kinh tế thành thị và nông thôn, tăng cường chỉ đạo xây dựng thị trấn nhỏ. Quy hoạch phát triển của các huyện và thị trấn nhỏ dưới cấp huyện cần thích ứng với nhu cầu của nền kinh tế hàng hóa và kiểm soát chặt chẽ quy mô chiếm dụng đất đai. Năng lực quản lý và điều phối kinh tế của chính quyền cấp huyện cần được nâng cao. Phát triển giao lưu kinh tế, công nghệ với nước ngoài19.
Ngày 1-1-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành Văn kiện số 1 thứ năm “Triển khai công tác nông thôn năm 1986”, khẳng định các nguyên tắc và chính sách cải cách nông thôn là đúng đắn và phải tiếp tục thực hiện. Để ứng phó với xu hướng trì trệ, do dự và buông lỏng của ngành nông nghiệp, văn bản nhấn mạnh việc tiếp tục điều chỉnh vị thế của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Từ năm 1987, khi cải cách kinh tế ở nông thôn đi vào ổn định, Văn kiện số 1 hàng năm tạm thời ngừng công bố. Việc chỉ đạo công tác này được thực hiện bằng các văn kiện khác. Đến năm 2004, trước tình hình thu nhập bình quân đầu người của nông dân tăng chậm, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành tiếp “Ý kiến về một số chính sách thúc đẩy tăng thu nhập của nông dân”, hay còn gọi là Văn kiện số 1 thứ sáu kể từ khi cải cách và mở cửa.
4. Nới lỏng hạn chế lao động nông thôn di cư ra thành thị tham gia phát triển kinh tế
Văn kiện số 1 thứ ba (1984) quy định trong năm 1984, các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương có thể lựa chọn một số thị trấn để thực hiện thí điểm cho phép những người nông dân đang làm việc, kinh doanh hoặc điều hành ngành dịch vụ tự cung cấp thực phẩm được định cư tại các thị trấn, thành phố đó. Khi bắt đầu cải cách, sự phát triển của các doanh nghiệp thị trấn và làng xã cũng như việc di chuyển nông dân về khu vực nông thôn vẫn bị hạn chế nghiêm ngặt với chính sách kiểm soát chặt chẽ lực lượng lao động nông thôn đi làm việc tại thành phố, “vào nhà máy nhưng không vào thành phố”, “rời ruộng nhưng không rời quê hương”.
Vì vậy, tiếp theo Văn kiện số 1 thứ ba, ngày 13-10-1984, Quốc vụ viện Trung Quốc phê duyệt “Thông báo về việc giải quyết việc làm cho nông dân tại các thành phố, thị trấn”. Văn bản quy định nông dân nếu có năng lực kinh doanh, có nơi cư trú cố định hoặc làm việc lâu dài tại các doanh nghiệp thị trấn thì cơ quan công an phải cho phép họ đăng ký thường trú. Họ được tính vào dân số phi nông nghiệp, được mua lương thực giá thương lượng, phải nộp đơn xin “Sổ đăng ký hộ gia đình tự cấp khẩu phần” và “Giấy chứng nhận cung cấp lương thực và dầu cao cấp”. Chính sách này được coi là cột mốc quan trọng, mang lại cho những nông dân đáp ứng điều kiện được “quyền tự do di cư”, quyền hợp pháp sinh sống ở thành phố. Đây là khởi đầu để thay đổi tình trạng đóng cửa lâu dài của các thành phố, tạo cơ cho người nông dân Trung Quốc, tuy chưa phải là tất cả, có thêm cơ hội việc làm thu nhập cao và là nguồn cung cấp lao động quan trọng cho các thành phố, thị trấn trong giai đoạn phát triển tiếp theo của Trung Quốc20.
Theo tinh thần này, sự phát triển của doanh nghiệp thị trấn đã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân và các cấp ủy đảng, chính quyền phải tích cực chỉ đạo các doanh nghiệp thị trấn theo hướng phát triển. Các doanh nghiệp thị trấn được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp nhà nước. Nếu như năm 1978, giá trị sản lượng của hệ thống công xã nhân dân chỉ tương đương khoảng 37% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp năm đó, thì đến năm 1987, con số đó ở các doanh nghiệp thị trấn tăng lên 104% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, tương đương 485,4 tỷ nhân dân tệ và lần đầu tiên vượt tổng giá trị sản lượng nông nghiệp21.
Tháng 7-1985, Bộ Công an Trung Quốc thực hiện Quy định tạm thời về Quản lý dân số di cư tại các khu vực đô thị, cho phép lao động nông thôn chuyển đến các thành phố. Nhà nước cho phép mở rộng hơn nữa trao đổi kinh tế thành thị -nông thôn" và "cho phép nông dân mở cửa hàng và xưởng ở thành phố, thiết lập các ngành dịch vụ và cung cấp các dịch vụ lao động khác nhau." Từ đây bắt đầu làn sóng nông dân di cư ra thành phố. “Vào nhà máy rồi vào thành phố, rời ruộng đất rồi rời quê hương” đã trở thành lựa chọn của nhiều nông dân hơn. Cuộc cải cách này không chỉ mang lại cho nông dân nhiều quyền tự do đi lại hơn, giải phóng hàng trăm triệu nông dân khỏi nông thôn, mà còn thúc đẩy sự giải phóng nền kinh tế tập thể và doanh nghiệp thị trấn khỏi những hạn chế và phụ thuộc vào các khu vực và cộng đồng truyền thống.
Đến năm 1985, cả nước Trung Quốc có 45,775 triệu lao động nông thôn đã chuyển sang làm các ngành phi nông nghiệp, trong đó 31,2647 triệu người đã chuyển sang làm công nghiệp ở nông thôn. Cuộc cải cách này không chỉ giải phóng nông dân và tập thể nông thôn khỏi nền sản xuất nông nghiệp đơn lẻ truyền thống mà còn giải phóng một bộ phận lớn nông dân khỏi nền nông nghiệp và đất đai truyền thống,22 thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân nông thôn tăng từ 186,66 nhân dân tệ năm 1980, lên 445,79 nhân dân tệ năm 198723.
Đại hội lần thứ XIII (10-1987) của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận định những thành tựu từ sau cải cách mở cửa đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, diện mạo đất nước có những thay đổi sâu sắc. Phần lớn 1 tỷ dân Trung Quốc có cuộc sống đủ ăn đủ mặc. Một số khu vực đã bắt đầu hướng tới cuộc sống khá giả. Ở một số vùng, vấn đề lương thực, quần áo vẫn chưa được giải quyết triệt để nhưng đã có phần cải thiện. Nhiều cơ hội việc làm được mở ra ở cả thành thị và nông thôn. Nhiều doanh nghiệp mọc lên ở thị trấn, các làng xã. 80 triệu nông dân Trung Quốc đã chuyển đổi hoặc chuyển đổi một phần sang các ngành phi nông nghiệp. Nguồn cung của thị trường được cải thiện đáng kể. Về cơ bản đã đảo ngược tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng hàng tiêu dùng kéo dài trong quá khứ24.
5. Kết luận
Cách mạng Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị. Trung Quốc coi vấn đề nông dân là vấn đề cơ bản của cách mạng. Cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc bắt đầu từ nông thôn, từ trí tuệ của những nông dân và cán bộ trực tiếp tham gia lao động và điều hành sản xuất ở cơ sở.
Hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, một hình thức “khoán hộ” khi mới xuất hiện ở cơ sở mang lại hiệu quả kinh tế, mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau đã được không chỉ lãnh đạo Đảng ở địa phương mà còn cả lãnh đạo Đảng ở Trung ương nhanh chóng ghi nhận với một thái độ cởi mở và tinh thần cầu thị theo nguyên tắc “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Khi thực tiễn đã được kiểm nghiệm là đúng thì nó là chân lý, phải được bảo vệ và phát triển bằng các văn bản chính thức - hệ thống Văn kiện số 1 hằng năm. Trong khi tổng kết thực tiễn và trong quá trình chỉ đạo, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của cơ chế cũ và yêu cầu cán bộ lãnh đạo các cấp phải cởi mở, mạnh dạn, thực tế, chủ động và nhiệt tình phục vụ nhân dân. Kinh tế nông thôn phát triển, đời sống nông dân được nâng cao, tạo tiền đề thuận lợi cơ bản cho Trung Quốc bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo. Vì lợi ích của người dân, tôn trọng thực tiễn, nhanh chóng tổng kết và áp dụng là một đặc điểm của quá trình ra chính sách về kinh tế nông thôn của Trung Quốc.
Thành công trong lĩnh vực cải cách kinh tế nông thôn đã giúp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc lấy lại được niềm tin của giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông, giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn đầu của cải cách và mở cửa.
Ngày nhận bài: 6-4-2024 ; ngày thẩm định, đánh giá: 25-4-2025; ngày duyệt đăng:29-4-2025
2, 5 “Cải cách và mở cửa: năm vấn đề lớn để hiểu những thay đổi của Trung Quốc trong 40 năm qua”, BBC Hán ngữ, 12-12-2018, https://www.bbc.com/zhongwen/simp/chinese-news-46490360, truy cập ngày 23-10-2024
3, 23. Hoàng Thế Anh: “Nông dân Trung Quốc, thực trạng bất đối xứng so với người dân thành thị”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1- 2008, tr. 26-40, 26-40
4 “Các vấn đề nông thôn từng là trọng tâm của chính sách trong 30 năm – Đoàn Dĩnh Bật nói về những câu chuyện sau các chính sách nông thôn lớn”, Bộ Nông nghiệp và nông thôn, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, http://www.moa.gov.cn/ztzl/nyncggfz30n_1/gd/200812/t20081217_1191579.htm, truy cập ngày 23-3-2025
12. Zhang Lei: “Các vấn đề nông thôn đã là trọng tâm của chính sách trong 30 năm - Duan Yingbi nói về những câu chuyện đằng sau việc đưa ra các chính sách nông thôn lớn”, Farmers Daily, 17-12-2008, Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, http://www.moa.gov.cn/ztzl/nyncggfz30n_1/gd/200812/t20081217_1191579.htm, truy cập ngày 23-3-2025
15. Đỗ Nhuận Sinh (Du Runsheng): “Sự vĩ đại của một biểu tượng”, The New York Times Hán ngữ, ngày 23-7-2012, https://cn.nytimes.com/china/20120723/cc23caixin/, truy cập ngày 20-2-2025.
18. http://www.reformdata.org/1983/0102/7467.shtml, Cơ sở dữ liệu thông tin cải cách Trung Quốc, truy cập ngày 3-3-2025
19. Cổng thông tin Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, http://www.moa.gov.cn/ztzl/xzgnylsn/gd/200909/t20090918_1353794.htm, truy cập ngày 20-2-2025