Tóm tắt: Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cho đến nay, Cách mạng Tháng Mười đã trải qua 102 năm với nhiều bước thăng trầm, nhưng ý nghĩa to lớn đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Đối với Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người đầu tiên thấu hiểu được giá trị của Cách mạng Tháng Mười. Trên cơ sở đó, Người khẳng định, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga. Từ chỉ dẫn này của Người, đã hình thành nên con đường cách mạng Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đem lại nền độc lập, tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đó, cách mạng Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học, kinh nghiệm quý giá. Những bài học, kinh nghiệm này cần được quán triệt sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận định về ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu sâu sắc lịch sử của Cách mạng Tháng Mười nhằm rút ra bài học kinh nghiệm thiết thực cho cách mạng Việt Nam. Trong thời gian từ tháng 6-1925 đến tháng 7-1927, tại các lớp huấn luyện thế hệ cán bộ cách mạng đầu tiên chuẩn bị cho sự nghiệp Dựng Đảng-Cứu Quốc, Người đã phân tích kỹ lưỡng từng chặng đường của cuộc cách mạng ở Nga, so sánh với các cuộc cách mạng nổ ra trước đó ở Pháp và Mỹ. Bằng cách đó, Người đã giúp cho các học viên thấm sâu nhận thức, rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”2. Và: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”3. Hội nghị thành lập Đảng (1930) đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng hợp thành cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “... chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”4. Đây chính là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn với CNXH, đi tới XHCN.
Gần chín thập kỷ đi theo con đường cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh chỉ dẫn, dân tộc Việt Nam đã vượt qua mọi thử thách khốc liệt của lịch sử. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng như trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, chính những bài học của Cách mạng Tháng Mười được Hồ Chí Minh đúc kết đã soi tỏ con đường cho cách mạng Việt Nam.
Trước hết, đó chính là tôn chỉ là mục đích tối hậu của cuộc cách mạng, rằng phải làm cho cách mạng “thành công đến nơi”, tức là phải làm cho “dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Trong bối cảnh của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, khi mà “quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc”5 thì Hồ Chí Minh đề cao chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhưng ngay lúc đó, Người cũng khẳng định rằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc luôn luôn gắn bó khăng khít với cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng xã hội, bởi vì “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”6. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời, ngày 3-9-1945, bên cạnh đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh đã phát động cuộc đấu tranh chống “giặc đói” và “giặc dốt”, đồng thời yêu cầu tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử để toàn dân bầu ra quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập chính là vì muốn chăm lo đến đời sống của nhân dân và đảm bảo quyền tự do, bình đẳng “thật” của nhân dân. Đây cũng là điều Hồ Chí Minh tâm niệm, đau đáu cả đời. Đó là “ham muốn tột bậc” của Người và cũng là ý chí chính trị của toàn Đảng, bởi “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”7.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chỉ ra cho các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thấy rõ những yếu tố cốt lõi đảm bảo cho sự toàn thắng của cuộc đấu tranh lâu dài, vô cùng gian nan, phức tạp, nhưng hết sức vẻ vang. Yếu tố cốt lõi hàng đầu là “dân chúng làm gốc”. Thoạt nhìn qua, đây tưởng chừng như không có gì mới đối với những người Việt Nam yêu nước, bởi lẽ từ thế kỷ XIII, Hưng Đạo Đại Vương đã từng căn dặn vua Trần: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước vậy”8. Tuy nhiên, xem xét kỹ thì sẽ thấy toát ra từ trong bài học lịch sử mà Hồ Chí Minh đã đúc kết từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga: dân chúng ở đây không còn trừu tượng, chung chung mà chính là quần chúng nhân dân lao động, nòng cốt là công nhân và nông dân. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định rất chắc chắn: “công nông là người chủ cách mệnh”; “công nông là gốc cách mệnh”9.
Trong bối cảnh lịch sử đất nước ta hồi những năm 1920-1930, luận điểm nói trên của Hồ Chí Minh được chiếu rọi từ V.I.Lênin và Cách mạng Tháng Mười đã mang lại những nhận thức khai sáng có tính đột phá đối với thế hệ các nhà lãnh đạo mới của phong trào yêu nước và cách mạng. Tuyệt đại đa số họ đều là trí thức xuất thân từ tầng lớp trên, tuy nhiệt thành yêu nước, quả quyết xả thân cứu nước, nhưng họ đang say sưa với các mẫu hình anh hùng cá nhân, chưa nhận ra được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân lao động, trong khi đây chính là lực lượng nòng cốt để cách mạng ngày càng lớn mạnh, sâu rễ bền gốc ở khắp cả nước.
Quan điểm “công nông là gốc cách mệnh” càng ngày càng được Đảng hoàn thiện, phát triển thành lý luận về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân-cẩm nang của dân tộc ta để đánh thắng các đế quốc hùng mạnh và hung ác nhất thế giới trong thế kỷ XX.
Yếu tố cốt lõi, quan trọng nhất, đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam-theo như cách nói của Hồ Chí Minh khi đúc rút kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười, là “phải có đảng bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”. Trả lời câu hỏi “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh đáp: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Người nhấn mạnh: “Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”10.
Làm thế nào để “đảng vững”? Hồ Chí Minh cho rằng đảng cách mạng “phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất” và do đó, phải có lý luận cách mệnh. “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Và Hồ Chí Minh khẳng định quả quyết, từ kinh nghiệm lịch sử của Cách mạng Tháng Mười, rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”11.
Có thể thấy bản chất và kinh nghiệm lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Mười đã thấm sâu, trở thành những điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và trở thành ý chí, thành văn hóa chính trị, thành cẩm nang quyết thắng của Đảng, thành mục tiêu tối hậu và khát vọng của sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Còn nhớ, khi công cuộc cải tổ do Gorbachev khởi xướng ở Liên Xô mới bắt đầu, giới lãnh đạo và nhiều nhà khoa học Xô viết đã có xu hướng trở lại với V.I.Lênin và Cách mạng Tháng Mười. Đó là xu hướng đúng, và họ đã tìm thấy trong tinh thần Chính sách kinh tế mới (NEP) nhiều chỉ dẫn lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng để đổi mới nhận thức luận về con đường quá độ lên CNXH và CNCS. Họ cũng tìm thấy khát vọng giải phóng và bình đẳng dân tộc của Cách mạng Tháng Mười; thấy tầm nhìn chiến lược của bản Sắc lệnh hòa bình của V.I.Lênin v.v. Tuy nhiên, Gorbachev và giới học giả Xô viết đã không nhìn thấy hai điều mà Hồ Chí Minh đã rút ra được từ những năm 1925-1927-như đã phân tích ở bên trên. Họ đã không đặt nhân dân Liên Xô vào trung tâm của quá trình cải tổ; họ cũng không nhận ra tầm quan trọng của việc củng cố Đảng Cộng sản Liên Xô thành một đảng “bền gan, hy sinh, thống nhất”, đủ xứng tầm lãnh đạo sự nghiệp cải tổ. Đó chính là nguyên nhân đã dẫn đến sự thất bại của cải tổ, dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Trong khi đó, ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bước vào công cuộc đổi mới với những khó khăn, thử thách khốc liệt hơn Liên Xô và các nước Đông Âu hàng trăm lần: tình trạng đói nghèo tràn ngập khắp nơi; lạm phát ở mức gần 800%; bị bao vây, cấm vận tứ bề; lòng tin của nhân dân bị xói mòn nghiêm trọng, nhân tâm phân tán. Không ít người, kể cả những người từng đứng trong đội ngũ của Đảng, hoài nghi, không tin vào thành công của sự nghiệp đổi mới.
Trở về với V.I.Lênin, với Hồ Chí Minh, với tinh thần của Cách mạng Tháng Mười và Cách mạng Tháng Tám, khi đó, Đảng đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới bằng phương châm “Lấy dân làm gốc” bắt đầu từ Đại hội VI (12-1986). Đảng tuyên bố thực hiện sự nghiệp đổi mới, ba chương trình kinh tế lớn đưa nông nghiệp, thủ công nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng lên thành “mặt trận hàng đầu”. Tất cả trước hết tập trung giải quyết những bức bách trong đời sống nhân dân. Chính sách khoán mới trong nông nghiệp và nhiều chính sách khác cũng nhằm “cởi trói”, giải phóng sức sản xuất và mở đường, giúp đỡ cho người dân tự làm chủ quá trình sản xuất và đời sống của mình. Chỉ trong thời gian ngắn, các khó khăn to lớn đã được giải quyết, lòng tin của toàn dân tộc được vãn hồi và củng cố. Việt Nam ngày càng vững bước trên đường đổi mới, thành công nối tiếp thành công-điều nằm ngoài mọi sức tưởng tượng của các thế lực thù địch và cả những phần tử “trở cờ”!
Luôn quan tâm đến người dân và đặt nhân dân vào vị trí trung tâm-vị trí chủ nhân đất nước-đó là bí quyết thành công quan trọng nhất, có ý nghĩa lâu dài, bền vững nhất của công cuộc đổi mới.
Trong thực tiễn, không phải không có những lúc, những nơi nguyên lý “dân là gốc” bị vi phạm-và mỗi lần như vậy chúng ta đều phải trả giá không nhỏ. Những cuộc tụ tập phản đối đông người ở Thái Bình những năm 1996-1997, những cuộc xung đột kiểu “làng Nhô” ở nhiều nơi, các cuộc bạo động ở Tây Nguyên, Tây Bắc, nhiều cuộc khiếu kiện đông người, kéo dài, như ở Đồng Tâm, Thủ Thiêm v.v. là những sự cố khiến cho bài học về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân, giữa dân với nước càng thêm thấm thía.
Trong suốt chặng đường hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt công tác củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh lên thành nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ ưu tiên với tầm quan trọng sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, với sự tồn vong của chế độ. Xây dựng Đảng là công việc to lớn, với nhiều nội dung, nhiều phương diện, nhưng trước hết là phải xây dựng bản lĩnh chính trị của Đảng-tức là Đảng phải “bền gan”. Trong chiến tranh và cách mạng, Đảng đã được tôi rèn nhiều, song các thử thách trong thời kỳ hòa bình xây dựng, nhất là trong đổi mới, phải tự phủ định mình, đổi mới mình để vươn lên giữa lúc các đảng cầm quyền ở các nước XHCN bị sụp đổ hàng loạt mới thực sự là thử thách gay go nhất. Nhưng, với bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì và linh hoạt chèo lái con thuyền đổi mới qua mọi thác ghềnh.
Đảng không chỉ “bền gan”, mà Đảng còn luôn duy trì được sự thống nhất, đoàn kết cao, được gìn giữ “như gìn giữ con ngươi của mắt mình”. Đoàn kết, thống nhất không có nghĩa là từ bỏ phê bình, đấu tranh, mà trái lại, Đảng đã xác định được những bước đi phù hợp của công cuộc “chỉnh đốn lại Đảng”, càng ngày càng kiên quyết, càng ngày càng gắn liền với quá trình củng cố, xây dựng Đảng toàn diện, vững chắc hơn. Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, làm cho Đảng trong sạch, liêm chính, đạo đức, văn minh hơn đang ngày càng làm cho nhân dân vững tin hơn vào Đảng. Đó chính là điểm cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hơn một thế kỷ qua, nhất là từ sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều thế lực đã và đang dùng nhiều thủ đoạn xuyên tạc, bôi đen, hạ thấp ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở nước Nga. Tuy nhiên, tất cả những thủ đoạn đó của họ đều thất bại. Nhân loại tiến bộ đến nay vẫn luôn đánh giá cao-một cách khoa học và công bằng-khát vọng và đóng góp của Cách mạng Tháng Mười vào hành trình chung của nhân loại đi tới tự do, bình đẳng, hòa bình và tiến bộ xã hội. Trong sách giáo khoa lịch sử ở hầu hết các nước phương Tây, bài học về Cách mạng Tháng Mười vẫn được mang đến cho thế hệ trẻ để truyền cho họ cảm hứng và khát vọng đấu tranh vì một thế giới công bằng, bình đẳng và tiến bộ.
Đối với Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga đã và mãi là “mặt trời chói lọi” soi sáng con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người và giải phóng xã hội. Kinh nghiệm và những bài học lịch sử ở tầm trí tuệ của thời đại đã được Hồ Chí Minh đúc kết và được Đảng và nhân dân ta vận dụng thành công trong đấu tranh cách mạng và trong công cuộc đổi mới hiện nay. Niềm tin và khát vọng của cuộc cách mạng “xông lên đoạt trời” của công, nông, binh Nga năm 1917 là hành trang vô giá của nhân loại và của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và xu thế phát triển bền vững.
__________________
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 15, tr. 387
2, 3. Sđd, tr. 304, 304
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T. 2, tr. 2
5. Sđd, T. 7, tr. 113
6, 7. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T.4, tr. 64, 401
8. Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H, 1998, T. 2, tr. 79
9, 10, 11. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 2, tr. 288, 289, 289.
GS, TS PHẠM HỒNG TUNG
Đại học Quốc gia Hà Nội