Tóm tắt: Quốc tế Cộng sản (1919-1943), với vai trò là trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới-ngay khi mới thành lập đã xác định nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải giúp đỡ các dân tộc thuộc địa, các nước lạc hậu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Thực tế lịch sử thế giới đã minh chứng nhiều nước thuộc địa ở các châu lục khác nhau, đã vươn lên giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, giải phóng dân tộc và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trước bối cảnh mới hiện nay, đòi hỏi mỗi Đảng Cộng sản và mỗi quốc gia phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện lịch sử mới để tiếp tục phát triển.

1. Quốc tế Cộng sản đối với các dân tộc thuộc địa
Đến đầu thế kỷ XX, nhất là sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, từ châu Á, châu Âu đến châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, giải phóng dân tộc, nhất là các dân tộc thuộc địa ở phương Đông (như Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ...) đã phát triển lớn mạnh. Mặc dù vậy, ở nhiều nước, các nước đế quốc vẫn tiếp tục tìm mọi cách bóc lột và đàn áp dã man các dân tộc thuộc địa và các nước lạc hậu. Trong bối cảnh đó, một số quan điểm trong phong trào công nhân cho rằng: đối với các dân tộc thuộc địa, dân tộc lạc hậu do nền kinh tế còn kém phát triển nên nhất thiết phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN, sau đó tiến hành cuộc cách mạng vô sản để đi lên CNXH.
Nắm bắt được tình hình và nguyện vọng giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nhiều quốc gia và khát vọng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Quốc tế Cộng sản (QTCS)-do V.I.Lênin lãnh đạo, đã đặc biệt chú ý đến cách mạng giải phóng dân tộc. Tại Đại hội II QTCS (được tổ chức từ ngày 19-7 đến ngày 7-8-1920 ở nước Nga Xô viết), vấn đề dân tộc và thuộc địa trở thành một trong những nội dung nổi bật, chủ chốt được đưa ra bàn thảo. Tại Đại hội này, V.I.Lênin đã đọc báo cáo của “Tiểu ban về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, trong đó khẳng định: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”1. Đồng thời QTCS xem đây là một “nguyên tắc” để có thể thực hiện con đường quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đối với các dân tộc thuộc địa, các nước lạc hậu.
Từ vấn đề mang tính nguyên tắc này, tại Đại hội IV (họp từ ngày 5-11 đến ngày 5-12-1922), QTCS đã đề ra nhiệm vụ của các đảng cộng sản ở các nước chính quốc đối với giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa: Các đảng cộng sản ở những nước có thuộc địa cần phải có nhiệm vụ tổ chức giúp đỡ tinh thần và vật chất một cách có hệ thống phong trào công nhân và phong trào cách mạng ở các thuộc địa. Tại Đại hội V QTCS, trong phiên họp thứ 24 (ngày 3-7-1924), Nguyễn Ái Quốc, đại biểu tham dự Đại hội, đã kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của QTCS đối với các dân tộc thuộc địa ở Đông Dương: “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”2.
Để đáp ứng nguyện vọng của các dân tộc thuộc địa, các nước lạc hậu và thực hiện trách nhiệm cao cả, QTCS đã cụ thể hóa chủ trương đối với các dân tộc thuộc địa bằng những nội dung cụ thể sau:
Một là, giúp đỡ đào tạo đội ngũ cán bộ cho các dân tộc thuộc địa, các nước lạc hậu.
Hiểu rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, QTCS khẳng định phải giúp đỡ “bằng mọi cách”, “phải đào tạo những cán bộ độc lập, xây dựng nên những tổ chức đảng”, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước tiền TBCN3.
Thực hiện chủ trương của QTCS, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của V.I.Lênin, nước Nga Xô viết đã đi tiên phong trong việc giúp đỡ các nước lạc hậu bằng việc thành lập Trường Đại học Cộng sản của nhân dân lao động Phương Đông (gọi tắt là Trường Đại học Phương Đông) vào ngày 21-4-1921 tại Mátxcơva. Từ khi được thành lập, trường đã đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp không chỉ của các nước phương Đông Xô viết, mà cả cho các nước thuộc địa và phụ thuộc của 73 dân tộc khác nhau trên thế giới4. Đây là một sự giúp đỡ hiệu quả, thiết thực nhằm trang bị lý luận cách mạng, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tổ chức và phương pháp đấu tranh cách mạng mang tầm chiến lược cho đội ngũ cán bộ cốt cán, trung kiên của nhiều nước trên thế giới.
Đối với cách mạng Việt Nam, nhiều đồng chí đã được học tập, bồi dưỡng trưởng thành từ trường này và đã trở thành những lãnh tụ xuất sắc của phong trào, những chiến sĩ tiên phong của cách mạng Việt Nam, như đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v.
Đánh giá một cách toàn diện vai trò to lớn và sự giúp đỡ chí tình, hiệu quả của QTCS trong công tác đào tạo cán bộ cho các dân tộc thuộc địa phương Đông, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Việc thành lập trường Đại học Phương Đông đánh dấu một kỷ nguyên mới; trong khi tập hợp những người trẻ trung, hoạt bát, thông minh của các nước thuộc địa lại, nhà trường đang tiến hành một sự nghiệp vĩ đại là:
a) Giáo dục các chiến sĩ tương lai ấy nắm được nguyên lý đấu tranh giai cấp là nguyên lý mà một mặt, những cuộc đấu tranh chủng tộc, mặt khác, những tập tục gia trưởng đã làm cho mơ hồ, lẫn lộn trong đầu óc họ.
b) Làm cho đội tiền phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới đảm bảo cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
c) Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
d) Nêu lên cho giai cấp vô sản ở những nước mà giai cấp tư sản có thuộc địa, một tấm gương về những điều họ có thể làm và phải làm cho những người anh em của họ đang bị nô dịch”5.
Hai là, giúp đỡ truyền bá tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập tổ chức đảng cộng sản.
Với sự cổ vũ, giúp đỡ chí tình và chỉ đạo sát sao của QTCS, cộng với sự chủ động, tích cực của đội ngũ cán bộ cách mạng tiên phong ở mỗi nước, đến những năm đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá vào các nước lạc hậu, các nước thuộc địa và phụ thuộc trên khắp các châu lục, đặc biệt là ở phương Đông. Do đặc điểm nổi bật của những nước thuộc địa, lạc hậu là “quảng đại quần chúng nhân dân... là nông dân”6 nên việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào những nước này là một “khó khăn to lớn” đối với QTCS. Song dù có khó khăn đến mấy, QTCS xác định vẫn phải tìm mọi cách thực hiện nhiệm vụ quan trọng này để chuẩn bị đi tới thành lập đảng cộng sản ở những nước lạc hậu, những nước thuộc địa. Báo cáo của “Tiểu ban về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” được V.I.Lênin trình bày tại Đại hội II khẳng định: “... trong các luận cương của Quốc tế Cộng sản cần phải chỉ rõ rằng... nhiệm vụ tuyệt đối của các đảng cộng sản và các phần tử sẵn sàng thành lập đảng cộng sản là, bất cứ ở đâu, trong các nước lạc hậu, các thuộc địa, cũng phải luôn luôn tuyên truyền cho Xô-viết nông dân, Xô -viết lao động và ở những nơi mà điều kiện cho phép, họ phải tìm cách thành lập ngay các Xô-viết nhân dân lao động”7 với mục tiêu nhằm “... làm thức tỉnh trong quần chúng, lòng mong muốn suy nghĩ độc lập về chính trị và hoạt động độc lập về chính trị, ngay cả ở địa phương hầu như không có giai cấp vô sản”8. Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa và các nước lạc hậu đã có sự biến đổi về chất-cuộc đấu tranh của nhiều dân tộc thuộc địa không chỉ dừng lại ở mục tiêu giành độc lập dân tộc, mà hướng tới mục tiêu dân chủ và mục tiêu CNXH.
Với vai trò của QTCS, với sự cổ vũ, giúp đỡ của phong trào cách mạng vô sản thế giới, từ những năm 1919-1921, một loạt đảng cộng sản ở nhiều nước được thành lập để lãnh đạo phong trào như ở Đức, Áo, Hunggari, Ba Lan, Phần Lan, Hy Lạp, Áchentina, Ấn Độ, Trung Quốc...
Đối với cách mạng Việt Nam, QTCS đã tích cực giúp đỡ tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự ra đời các tổ chức cộng sản ở trong nước và chỉ đạo kịp thời để hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng cộng sản thống nhất, trong đó Nguyễn Ái Quốc đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Với tư cách là “phái viên của Quốc tế Cộng sản” được phân công theo dõi phong trào cách mạng ở các nước Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập các tổ chức cộng sản Việt Nam và chủ trì Hội nghị hợp nhất để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam-nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay.
Việc giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, sự ra đời của các đảng cộng sản ở những nước lạc hậu và thuộc địa dưới sự giúp đỡ của QTCS đã tạo ra một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng của mỗi nước. Nó chứng tỏ rằng giai cấp công nhân đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc thành công, tiến tới thực hiện cách mạng vô sản.
Ba là, giúp đỡ về vật chất và tinh thần để các nước thuộc địa, các nước lạc hậu có thể thực hiện con đường quá độ lên CNXH không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
Với sự cổ vũ giúp đỡ trực tiếp to lớn của nước Nga Xô viết và sự chỉ đạo, giúp đỡ của QTCS, ngay từ những năm 1918-1919, nhiều dân tộc lạc hậu vốn là thuộc địa của Nga Sa Hoàng trước đây đã nổi dậy đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến ở nước mình để thành lập nên các nhà nước Xô viết, đồng thời cùng với nước Nga thành lập Liên bang cộng hòa XHCN Xô viết (Liên Xô) vào năm 1922. Từ đây, với sự giúp đỡ chí tình cả về vật chất và tinh thần của Liên Xô, giai cấp công nhân ở nhiều nước Đông Âu cũng đã nổi dậy giành chính quyền và đi theo con đường XHCN.
Nhiều năm sau, kể cả khi QTCS đã tuyên bố dừng hoạt động (1943) thì chủ trương của QTCS vẫn được lan tỏa và phong trào cộng sản công nhân quốc tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến cả về vật chất và tinh thần (Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu), trong đó Liên Xô là ngọn cờ đầu, nhiều nước ở các châu lục khác nhau với xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu đã vươn lên giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, vì giải phóng dân tộc và quá độ lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Đó là các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Mông Cổ, Triều Tiên, Anbani,... hình thành nên một hệ thống các nước XHCN và trở thành lực lượng đối trọng với hệ thống các nước TBCN trên thế giới.
 
2. Ý nghĩa đối với hiện nay
Vào những năm 80-90 của thế kỷ XX, sau hơn 70 năm tồn tại, phát triển và đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, CNXH hiện thực-mô hình Xô viết và phong trào cộng sản công nhân quốc tế đã lâm vào khủng hoảng, thậm chí đã đổ vỡ. Những tổn thất vô cùng to lớn này chính là kết quả của những sai lầm nghiêm trọng cả về khách quan và chủ quan, trong đó sâu xa nhất là những sai lầm chủ quan biểu hiện ở việc xem nhẹ, thậm chí từ bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản ở một số nước, vi phạm nghiêm trọng những vấn đề mang tính nguyên tắc cả trong tư tưởng, nhận thức, lý luận và cương lĩnh, đường lối... cũng như trong hoạt động thực tiễn của các đảng cộng sản cầm quyền.
Sau khủng hoảng, đổ vỡ của CNXH, mô hình Xô viết, các tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân cũng tan rã, hoặc không phát huy tác dụng; phong trào công nhân quốc tế thế giới gặp muôn vàn khó khăn: Cơ sở chính trị-xã hội, điều kiện về tổ chức và môi trường quốc tế để phối hợp hành động của các đảng cộng sản, của giai cấp công nhân quốc tế đã bị tổn thất nặng nề; tính liên kết giữa các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trở nên lỏng lẻo, việc tập hợp lực lượng trong nội bộ những người cộng sản gặp nhiều khó khăn; sự hậu thuẫn, ủng hộ, giúp đỡ vô tư, chí tình cả về vật chất và tinh thần của các đảng cộng sản và công nhân đối với các nước lạc hậu và đối với các nước XHCN còn lại-trong đó có những nước còn ở trình độ phát triển thấp, song vẫn tiếp tục kiên định con đường cải cách, đổi mới để quá độ lên CNXH không còn nữa... Vậy trong bối cảnh mới thì khả năng quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN  liệu có còn khả thi? Và các nước này nếu muốn tiếp tục phát triển theo con đường quá độ lên CNXH cần phải làm gì? Đó là những câu hỏi lớn cần phải được nghiên cứu để tìm ra lời giải.
Một thực tế cho thấy, sau một thời gian khủng hoảng, trì trệ chậm phát triển, các nước XHCN còn lại mặc dù đã không còn nhận được sự viện trợ và ủng hộ về vật chất và tinh thần từ các nước XHCN tiên tiến, song mỗi nước đều tìm cách bảo vệ những thành quả mà mình đã đạt được, vẫn kiên định đường lối cải cách, đổi mới để tìm mọi cách thoát ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Đến ngày hôm nay, những gì mà Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu Ba... đã đạt được sau những nỗ lực cải cách, đổi mới sáng tạo không ngừng để phát triển; những tín hiệu cho thấy sự phục hồi chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân thế giới... là những minh chứng cho thấy, mỗi nước bằng tinh thần tự lực tự cường, bằng trí tuệ sáng tạo dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một đảng chân chính lấy lợi ích của nhân dân làm trọng và trên hết để phục vụ, cộng với sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân thì mọi khó khăn, thách thức đều có thể vượt qua. Điều đó không có nghĩa là xem nhẹ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, trái lại càng phải tích cực, chủ động mở cửa, hội nhập, tranh thủ mọi cơ hội có thể về sự ủng hộ giúp đỡ của các nước XHCN còn lại, cũng như của cộng đồng quốc tế, kể cả của những nước có chế độ chính trị đối lập, trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, đảm bảo lợi ích của các bên để cùng phát triển.
Phương pháp luận duy vật biện chứng cho thấy để giải quyết vấn đề này mỗi nước trên con đường phát triển của mình cần tìm ra những xung lực mới để vượt qua khó khăn thách thức, tìm ra những cơ hội mới để phát triển. Hơn bao giờ hết, trong thế giới đương đại càng đòi hỏi mỗi đảng cộng sản và mỗi quốc gia phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về tính tất yếu của con đường đi lên CNXH và nhận thức rõ về tầm quan trọng của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong bối cảnh mới để tiếp tục kiên định mục tiêu lý tưởng XHCN. Với ý chí “tự lực cánh sinh là chính”, nhưng phải biết “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” đã được minh chứng từ thực tế lịch sử, trong điều kiện lịch sử mới, đòi hỏi mỗi đảng cộng sản ở mỗi nước phải có lập trường cách mạng kiên định, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức và năng lực vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin để đa dạng hóa các hình thức đoàn kết quốc tế, tập hợp lực lượng, phát huy hiệu quả chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong bối cảnh mới và liên tục đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn nữa để tìm ra con đường, biện pháp, cách thức, bước đi phù hợp với nước mình để đi tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
 
__________________
1, 3, 6, 7, 8. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, T. 41, tr. 295, 295, 292, 294, 293-294
2. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 1, tr. 311
4. Xem Đại Bách khoa toàn thư Xô viết, Mátxcơva, 1973, tiếng Nga, T. 12, tr. 575
5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 2, tr. 134.

PGS, TS BÙI THỊ NGỌC LAN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh