Tóm tắt: Quốc tế Cộng sản (1919-1943) là cơ quan lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cộng sản ở các nước trên thế giới theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng và giúp đỡ to lớn về đường lối chính trị, hình thành tổ chức, đào tạo cán bộ, nhất là thông qua vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng tiền bối truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, xây dựng nền tảng tư tưởng để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (mùa Xuân năm 1930). Suốt 24 năm hoạt động, Quốc tế Cộng sản gắn bó mật thiết với Đảng Cộng sản Việt Nam và định hướng phát triển các thời kỳ tiếp theo, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

1. Sau khi Ph.Ăngghen qua đời (1895), các phần tử cơ hội, xét lại đã đưa Quốc tế II đi chệch tư tưởng cách mạng và khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen. Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác vào hoàn cảnh nước Nga với việc trước hết là xây dựng Đảng cách mạng kiểu mới để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin cũng là người kiên quyết bảo vệ giá trị của chủ nghĩa Mác và thấy rõ sự cần thiết phải truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, cách mạng hóa giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp tiên phong chống sự thống trị của CNTB.
Đầu thế kỷ XX, CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN đẩy mạnh xâm chiếm các nước nhỏ yếu và chia nhau xong thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới (1914-1918) phản ánh mâu thuẫn nội tại của CNĐQ và cả mâu thuẫn với các nước thuộc địa. Vấn đề dân tộc và thuộc địa trở thành nội dung lớn của thời đại. Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích lãnh đạo thắng lợi (11-1917) đã hiện thực hóa lý luận của chủ nghĩa Mác và giải quyết những mâu thuẫn lớn của thời đại. Với ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sau khi Quốc tế II đã phá sản, để kiên định con đường của chủ nghĩa Mác, tháng 1-1919, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, đã diễn ra Hội nghị đại biểu của 8 đảng cộng sản và nhóm cộng sản, kêu gọi tất cả các đảng cộng sản và tổ chức XHCN phái tả tiến tới thành lập Quốc tế Cộng sản (QTCS) (International Communism).
Từ ngày 2 đến ngày 5-3-1919, tại Mátxcơva, đại biểu của các Đảng và nhóm cộng sản của 30 nước đã tiến hành Đại hội thành lập QTCS (tức Quốc tế III). QTCS có vai trò lãnh đạo, hướng dẫn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, định hướng và thúc đẩy phong trào cách mạng các nước TBCN và cả đối với các nước thuộc địa đấu tranh chống sự cai trị của chủ nghĩa thực dân. Sự kiện thành lập QTCS thể hiện sự thống nhất về mục tiêu chính trị trong đấu tranh chống CNĐQ, đồng thời khẳng định sự thống nhất về lý luận dựa trên nền tảng tư tưởng của học thuyết Mác. Tiếp tục đấu tranh chống những biểu hiện của bệnh “tả khuynh” trong phong trào cộng sản.
2. Ở thời điểm thành lập QTCS đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc ở Pari và tham gia Đảng Xã hội Pháp. CNTB ra sức ngăn chặn ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và QTCS. Vì vậy, tin tức từ nước Nga đến nước Pháp còn rất ít, thậm chí bị xuyên tạc. Hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc được nhiều đồng chí Pháp nổi tiếng về chính trị, lý luận giúp đỡ như Marcel Cachin, Paul Vailant Couturier, Gaston Monmousseau, Jean Longuet... Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc dần dần hiểu rõ giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, đó là nền tảng tư tưởng, học thuyết lý luận cần thiết để thành lập một đảng cách mạng và dẫn đường cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Bước ngoặt về nhận thức tư tưởng, lý luận của Nguyễn Ái Quốc là khi được đọc tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité, số ra ngày 16 và 17-7-1920. Tác phẩm đó được Đại hội II QTCS, họp từ ngày 19-7 đến ngày 7-8-1920, ở Pêtơrôgrat (Nga), thảo luận và thông qua. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trở thành văn kiện của QTCS đã định hướng rõ ràng về tư tưởng và chính trị cho các đảng và tổ chức cách mạng ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, thực dân, đồng thời cũng xác định trách nhiệm của các đảng cộng sản ở các nước tư bản ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Khẩu hiệu chiến lược của cách mạng thế giới là: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
Tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp, họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tours, Nguyễn Ái Quốc đã đứng về phái tả, tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp (30-12-1920) theo đường lối của QTCS. Rose, nữ thư ký Đại hội, hỏi Nguyễn Ái Quốc: Vì sao đồng chí bỏ phiếu cho QTCS? Nguyễn Ái Quốc trả lời: Vì QTCS rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”1.
Tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc gặp gỡ đại biểu của QTCS là đồng chí Clara Zetkin, Ủy viên Ban Thường vụ QTCS. Qua đối thoại, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ thêm quan điểm, đường lối của QTCS và tư tưởng, lý luận của C.Mác và V.I.Lênin. Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 21 đến ngày 24-10-1922. Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội và phát biểu nhấn mạnh vai trò của cách mạng ở các thuộc địa. Với vai trò tích cực của Nguyễn Ái Quốc và một số đảng viên ở các thuộc địa khác, Đại hội đã thông qua Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa. Đó là yếu tố tích cực tác động đến phong trào đấu tranh ở các thuộc địa. Cũng tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã gặp đại biểu của QTCS là đồng chí D’Manuilsky. Đồng chí D’Manuilsky hỏi nhiều về tình hình các thuộc địa và các phong trào đấu tranh, cũng vì thế, sau đó QTCS nhận rõ hơn những yêu cầu của cách mạng ở các thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc thấy rõ sự cần thiết phải tới Tổ quốc của V.I.Lênin và QTCS.
Các đồng chí cộng sản Pháp, Đức, Nga và QTCS đã tạo điều kiện để Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô, ngày 30-6-1923 (Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết (CCCP) gọi tắt là Liên Xô, được thành lập ngày 30-12-1922, gồm 12 nước cộng hòa). Khi Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô, V.I.Lênin đang bị bệnh nặng, nên Nguyễn Ái Quốc không được gặp V.I.Lênin. Lúc đó chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I.Lênin đề ra đang được thực hiện (chính sách này được triển khai thực hiện từ năm 1921); Liên Xô đã qua thời kỳ khó khăn nặng nề nhất do chiến tranh can thiệp của CNĐQ và nội chiến. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc được chứng kiến sự phát triển của quê hương Cách mạng Tháng Mười và cũng chứng kiến sự đau buồn vô hạn của nước Nga và QTCS trước sự kiện V.I.Lênin qua đời, ngày 21-1-1924.
Sau những ngày lễ tang V.I.Lênin, tại Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc với lòng biết ơn, cảm phục và tin theo V.I.Lênin, có dịp suy ngẫm nhiều về những luận đề V.I.Lênin nêu ra, nhất là với cách mạng thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài về V.I.Lênin. Bài “Lênin và các dân tộc thuộc địa” đăng trên báo Công nhân Bacu (Liên Xô), số 16-1925. Bài “Lênin và Phương Đông” đăng trên báo Tiếng còi Mátxcơva (Liên Xô), ngày 21-1-1926. Nguyễn Ái Quốc viết: “Cho tới ngày Lênin mất, vẫn còn có nhiều dân tộc thuộc các màu da chưa hiểu rõ Lênin là ai và nước Nga ở đâu. Bởi vì chủ nghĩa đế quốc thực dân cố ý không cho họ biết điều đó. Nhưng tại những nơi xa xăm hẻo lánh ở Đông Dương, người ta cũng đã nghe nói có một dân tộc ở miền Bắc xa xôi đã đánh đuổi được bọn áp bức và tự quản lý lấy mình. Ở các nơi xa xăm hẻo lánh nhất, người ta cũng biết rằng nước đó là nước Nga, và Lênin là người ưu tú nhất của nước đó”2.
“Đối với tất cả các dân tộc bị áp bức và bị nô dịch, Lênin đã thể hiện một bước ngoặt trong lịch sử cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của họ, là tượng trưng cho một tương lai mới, xán lạn”3.
Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Lênin là người đầu tiên đã đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”4.
Nguyễn Ái Quốc, với thời gian hoạt động ở QTCS và trên đất nước Liên Xô, đã thấy rõ tư tưởng vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen về giải phóng nhân loại và tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng các dân tộc bị áp bức. Mọi người đã dùng thuật ngữ Chủ nghĩa Mác-Lênin như nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc, một người cộng sản ở nước thuộc địa, thấy rõ chiều sâu và giá trị cách mạng của nền tảng tư tưởng đó.
Sau khi Đại hội II của QTCS quyết định những vấn đề về cách mạng thuộc địa (7-1920), vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhất là các nước phương Đông được quan tâm lãnh đạo, giúp đỡ. Ngày 21-4-1921, QTCS quyết định thành lập Trường Đại học cộng sản của những người lao động phương Đông (gọi tắt là Trường Đại học Phương Đông) để đào tạo cán bộ cách mạng cho các nước phương Đông và các nước Cộng hòa Trung Á của Liên Xô. Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên học một lớn ngắn hạn của Trường Đại học Phương Đông. Lần đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc được học tập, trang bị lý luận Mác-Lênin và những kiến thức cần thiết khác để lãnh đạo phong trào cách mạng và xây dựng một Đảng cách mạng theo hệ tư tưởng Mác-Lênin. Kỷ niệm lần thứ ba thành lập Trường Đại học Phương Đông, ngày 21-4-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự. Không chỉ được trang bị lý luận, Nguyễn Ái Quốc có thêm kinh nghiệm để sau này tới Quảng Châu (Trung Quốc) có thể tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ có hiệu quả.
Có một sự kiện rất quan trọng trong thời gian làm việc ở QTCS là ngày 10-10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân họp ở Điện Kremli (Mátxcơva). Hội nghị được Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Kalinin phát biểu chào mừng và Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nông dân Đông Dương và các thuộc địa khác và kêu gọi: “các đồng chí cần phải nêu gương cho chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, dang rộng cánh tay anh em đón chúng tôi để chúng tôi cũng có thể bước vào gia đình vô sản quốc tế”5.
Bộ máy tổ chức của QTCS có Ban Phương Đông giúp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng các nước phương Đông. Ngày 14-4-1924, Ban Phương Đông thuộc QTCS quyết định Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Ban. Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V QTCS vào mùa hè năm 1924. Đây là Đại hội họp sau khi V.I.Lênin đã qua đời. Đại hội tiếp tục khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng của C.Mác và V.I.Lênin. Đại hội đã ra lời kêu gọi, Nguyễn Ái Quốc đề nghị bổ sung vào lời kêu gọi có đoạn gửi các nước thuộc địa và đã được Đại hội chấp nhận. Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại phiên họp thứ 8 (23-6-1924), phiên họp thứ 22 (1-7-1924) và phiên họp thứ 25 (3-7-1924) của Đại hội. Ngày 20-6-1924, Đại hội V QTCS đã cử ra Ban Thuộc địa do D’Manuilski đứng đầu. Ảnh hưởng của QTCS đối với cách mạng các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, là rất lớn.
Thời gian làm việc ở QTCS, Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng hết sức để QTCS, các đảng cộng sản ở các nước phương Tây hiểu rõ hoàn cảnh các nước thuộc địa, yêu cầu đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập và có kế hoạch giúp đỡ những người cách mạng ở các thuộc địa xây dựng chính đảng cách mạng, đào tạo cán bộ và giúp họ kinh nghiệm tổ chức đấu tranh. Hoạt động trong QTCS, Nguyễn Ái Quốc trưởng thành về trình độ lý luận Mác-Lênin, nhận thấy sự cần thiết với nhiều hình thức phải truyền bá lý luận đó vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam và các thuộc địa. Lý luận Mác-Lênin trở thành điều kiện trước tiên để giác ngộ thức tỉnh giai cấp công nhân, nhân dân lao động đứng lên tự giải phóng và cũng là nhân tố hàng đầu để xây dựng một Đảng chân chính cách mạng.
Ngày 25-9-1924, QTCS quyết định cử Nguyễn Ái Quốc đi Quảng Châu (Trung Quốc), có nhiệm vụ phát triển ảnh hưởng của cách mạng vô sản ở châu Á, nhất là vùng Đông Nam Á. Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu ngày 11-11-1924. Tại đây, Người thực hiện nhiệm vụ quốc tế do QTCS phân công, đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam, vì ở Quảng Châu có nhiều người yêu nước Việt Nam từ trong nước sang. Đây cũng là cơ hội tốt để Nguyễn Ái Quốc truyền bá tư tưởng, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp những người yêu nước tiêu biểu và thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6-1925) và ra tờ báo Thanh niên, số đầu phát hành ngày 21-6-1925. Tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và tờ báo của Hội thật sự có ảnh hưởng lớn lao để phát triển phong trào cách mạng trong nước theo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của QTCS đồng thời là sự chuẩn bị tích cực về tư tưởng, lý luận, về đường lối chính trị và tổ chức, cán bộ để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương.
Điều cần nhấn mạnh, với sự giúp đỡ của QTCS, các đồng chí cộng sản của Liên Xô, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc liên tục mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ trong nước sang. Kết thúc các khóa học, các đồng chí trở về nước trực tiếp lãnh đạo phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và phong trào cách mạng trên phạm vi cả nước. Một số đồng chí xuất sắc, trong đó có Trần Phú, được Nguyễn Ái Quốc cử sang Mátxcơva (Liên Xô) học tại Trường Đại học Phương Đông. Tháng 6-1927 đã hình thành nhóm cộng sản Việt Nam ở Trường Đại học Phương Đông. Việc tiếp tục lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng được thực hiện chủ động và tích cực.
Lý luận Mác-Lênin là rất mới mẻ với các chiến sĩ cách mạng Việt Nam và được đón nhận với khát vọng mở ra con đường mới của sự nghiệp đấu tranh giải phóng và phát triển đất nước. Nét độc đáo của cách mạng Việt Nam là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sớm tiếp thu lý luận Mác-Lênin từ cội nguồn, đồng thời với tư duy sáng tạo, trình bày lý luận đó phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tư tưởng đó của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện nổi bật trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), nhiều bài báo viết khi ở Liên Xô, báo Le Paria và nhất là tác phẩm Đường Kách mệnh (1927). Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc đã được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dễ hành động được chuyển về trong nước, trở thành vũ khí tư tưởng, lý luận sắc bén thúc đẩy phong trào cách mạng. Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã hình thành rất sớm trong quá trình chuẩn bị để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, và cũng là sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin phù hợp với một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm quan trọng của lý luận đối với một Đảng tiên phong cách mạng. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”6.
Năm 1929, khi đã xuất hiện các tổ chức cộng sản: Chi bộ cộng sản 5D Hàm Long, Hà Nội (3-1929), Đông Dương Cộng sản Đảng (17-6-1929) ở Hà Nội, An Nam Cộng sản Đảng (11-1929) ở Sài Gòn, QTCS đã có những chỉ đạo kịp thời để tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Đông Dương. Ngày 18-10-1929, có văn bản đưa ra thảo luận tại phiên họp của Hội đồng Ban Bí thư Phương Đông của QTCS. Tài liệu nêu rõ việc thành lập Đảng Cộng sản càng trở nên cần thiết và cho rằng Đại hội vừa qua của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (5-1929) “nghị quyết do Đại hội này thông qua chưa chín chắn về mặt lý luận”7. Ngày 17-10-1929, QTCS lại có tài liệu gửi những người cộng sản Đông Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương. QTCS nêu rõ: “Sự trưởng thành của phong trào cách mạng ở Đông Dương, lòng căm thù của quần chúng nhân dân đông đảo đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp, và đặc biệt là sự phát triển của phong trào công nhân độc lập và sự tồn tại của các tổ chức cộng sản trong nước, đang tạo ra những điều cần thiết và sự cần thiết cấp bách là phải tổ chức một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”8. QTCS nhấn mạnh, Đảng “phải công bố và giải thích những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và đấu tranh kiên quyết chống mọi lệch lạc cơ hội chủ nghĩa”.
Được sự ủy nhiệm của QTCS, mùa Xuân năm 1930, tại Hồng Kông (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là đảng tiền phong cách mạng dựa trên đường lối của QTCS và nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với thành quả lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ-Tĩnh, tháng 4-1931, QTCS công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương “là chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản”.
Đại hội VII QTCS họp tại Mátxcơva, từ ngày 25-7 đến ngày 21-8-1935. Đây là đại hội cuối cùng của QTCS. Nhiều đồng chí lãnh đạo của QTCS đã chia sẻ với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về nêu cao ngọn cờ dân tộc và đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Tây Ban Nha về lập Mặt trận nhân dân chống CNTB, QTCS chủ trương các Đảng Cộng sản cần thiết lập Mặt trận dân tộc rộng rãi. Trên thực tế, vấn đề Mặt trận đã được Đảng Cộng sản Đông Dương thực hiện từ việc lập Hội phản đế đồng minh ngày 18-11-1930.
Suốt 24 năm lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (QTCS giải tán ngày 22-5-1943), ảnh hưởng của QTCS đối với cách mạng các nước rất to lớn và trên nhiều mặt. Những người cộng sản Việt Nam từ thời chuẩn bị thành lập Đảng đến các thời kỳ sau này biết ơn sự giúp đỡ của QTCS và các đồng chí cộng sản của nhiều nước. Đó là cơ sở vững chắc để Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản trước đây và cả ngày nay.
Trong xây dựng Đảng và thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền, vấn đề xây dựng vững chắc nền tảng tư tưởng có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa quyết định bản chất cách mạng, khoa học của Đảng. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam “lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”9. Điều đó đòi hỏi Đảng tuyệt đối trung thành, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phát triển sáng tạo, nhất là trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay. Không trung thành sẽ dẫn tới chủ nghĩa xét lại, cơ hội. Nếu không sáng tạo sẽ rơi vào giáo điều, chủ quan, duy ý chí, không thể phát triển. Đổi mới ngày càng phát triển càng phải bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
 
__________________
1, 5. Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, H, 1998, T. 1, tr. 94, 225
2, 3, 4, 6. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 2, tr. 222, 235, 234, 289
7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, T. 1, tr. 594, 614
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 88.
 
PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
Học viện Chính trị khu vực I