13/07/2023 - 11:55 AM - 1.893 lượt xem
Hiện nay, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có quan hệ ngoại giao với 143 nước và gần 140 chính đảng trên thế giới và là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, như: Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)... Đối với Việt Nam, là hai nước láng giềng thân thiện “núi liền núi, sông liền sông”, có mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt. Từ trong chiến tranh khói lửa đến khi hòa bình lập lại, Việt Nam và Lào luôn giúp đỡ nhau chí tình và coi đây là trách nhiệm tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ cho lợi ích hai nước. Trong bối cảnh mới với nhiều biến động, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện những chính sách trong quan hệ đặc biệt đối với Lào nhằm tiếp tục củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa hai nước vì sự trường tồn và phát triển phồn vinh của hai dân tộc.
Từ khóa: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; đường lối đối ngoại; hàm ý chính sách; quan hệ đặc biệt.
1. Chính sách đối ngoại của Lào trong bối cảnh mới
Chính sách đối ngoại của một quốc gia có vai trò rất quan trọng, là tập hợp các chiến lược mà quốc gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế, trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, quân sự, văn hóa - xã hội,... nhằm đạt được những mục tiêu đề ra phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào tháng 12-1975, Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào thực hiện chính sách ngoại giao “nghiêng về” Việt Nam và Liên Xô. Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, Lào chuyển sang thực hiện chính sách ngoại giao tích cực và linh hoạt hơn, nỗ lực phát triển quan hệ hữu nghị với nhiều nước. Trong tình hình mới, dù hoàn cảnh bên trong và bên ngoài có nhiều thay đổi, Đảng, Nhà nước Lào vẫn xác định chính sách đối ngoại là tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao và phát triền quan hệ thương mại bình thường với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của chính phủ và nhân dân các nước có thiện chí muốn giúp đỡ Chỉnh phủ và nhân dân Lào trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân Lào1. Đặc biệt đối với Việt Nam, tiếp tục phát huy “mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện” đi vào chiều sâu, phấn đấu đưa quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại tương xứng với quan hệ hợp tác về chính trị và an ninh; “Phát huy mối quan hệ truyền thống đối tác chiến lược toàn diện, ổn định lâu dài với Trung Quốc gắn với việc tổ chức thực hiện kế hoạch tổng thể đối tác Lào - Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực”; tăng cường quan hệ hợp tác với Nga vì lợi ích kinh tế, sự ổn định và phát huy truyền thống quan hệ của nhân dân hai nước2,…
Quan hệ kinh tế - xã hội của Lào với bên ngoài ngày càng có nhiều chuyển biến, đổi mới. Đến nay, Đảng NDCM Lào có quan hệ với gần 140 chính đảng trên thế giới và có quan hệ ngoại giao với 143 nước trên thế giới, trong đó quan hệ với các nước bạn bè chiến lược được phát huy sâu rộng, ngày càng có hiệu quả hơn. Năm 2020, xuất khẩu của Lào đạt xấp xỉ 5,9 tỷ USD, nhập khẩu đạt 5,2 tỷ USD, ghi nhận thặng dư thương mại đạt 0,7 tỷ USD; đến năm 2021, nhập khẩu hàng hóa của Lào đạt 6 tỷ USD, tăng 15,6% so với năm 2020 và xuất khẩu đạt 7 tỷ USD, tăng 11,88% so với năm 2020. Lào tiếp tục đạt thặng dư thương mại lên đến 1 tỷ USD3. Nếu xét về cơ cấu thị trường xuất khẩu, Thái Lan luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Lào, chiếm khoảng 42,6%, sau đó lần lượt là Trung Quốc: 28,7%; Việt Nam: 10,4%; Ấn Độ: 4,4%... Còn về thị trường nhập khẩu của Lào, Thái Lan chiếm 59,1%; Trung Quốc: 21,5%; Việt Nam: 9,8%,... (2019)4. Năm 2021, thương mại song phương của Lào đạt xấp xỉ 5,18 tỷ USD với Thái Lan (xuất khẩu 2,18 tỷ USD, nhập khẩu 3 tỷ USD), 3,47 tỷ USD với Trung Quốc (2,22 tỷ USD xuất khẩu, 1,25 tỷ USD nhập khẩu), và 1,71 tỷ USD với Việt Nam (1,22 tỷ USD xuất khẩu, 499 triệu USD nhập khẩu)5.
Lào là quốc gia không có biển duy nhất trong khu vực, do đó, chi phí thương mại quốc tế tăng đến 50%. Hiện nay, vận tải đường bộ vẫn chiếm ưu thế với 70% lưu lượng giao thông của đất nước. Trước tình hình đó, Lào đã tăng cường khả năng kết nối đường bộ, đồng thời xây dựng tuyến đường sắt Lào - Trung Quốc từ năm 2016 đến năm 2021 với chi phí lên tới khoảng 6 tỷ USD, trong đó 70% là vốn góp của Trung Quốc, phía Lào góp 30%. Tuyến đường sắt dài 427 km này là một phần trong con đường kết nối xuyên khu vực Côn Minh – Singapore6.
Hiện nay, một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, các quốc gia châu Mỹ cùng một số ngân hàng, tổ chức tài chính đang bày tỏ quan tâm đến các dự án năng lượng ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Lào. Tương lai không xa, cùng với các nguồn năng lượng thủy điện, Lào có thể sẽ xuất khẩu năng lượng điện gió, điện mặt trời sang các nước ASEAN7.
Có thể thấy, nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của Lào là tăng cường mối liên hệ kinh tế với thế giới; tích cực tìm kiếm sự đầu tư và viện trợ từ bên ngoài, mở rộng thị trường quốc tế nhằm phát triển kinh tế trong nước và nâng cao mức sống của người dân. Trong 5 năm (2021 – 2026), Lào đảm bảo hoạt động đối ngoại chủ động trên cơ sở kiên định đường lối hòa bình, độc lập và hợp tác, kiên quyết chống lại sự can thiệp từ bên ngoài dưới mọi hình thức và tích cực tham gia các quá trình giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Lấy ngoại giao phòng ngừa là chính, đấu tranh để bảo đảm quyền lợi chính đáng của các bên,…
Về chính sách với các nước láng giềng:
Vị trí địa lí của Lào không thuận lợi về giao lưu thương mại (không có biển) và đường biên giới phần lớn là núi cao, kinh tế còn nặng về tự cung - tự cấp, do đó Đảng và Nhà nước Lào đặc biệt chú ý đến quan hệ chính trị, an ninh và quan hệ kinh tế - thương mại với các nước láng giềng8, điều này thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, trong quan hệ với Trung Quốc: Lào không những là nước láng giềng có chung biên giới (505km) với Trung Quốc, mà còn là nước có cùng thể chế chính trị XHCN nên mối quan hệ Lào - Trung Quốc hết sức gần gũi và thân thiện, đồng thời đây cũng là quan hệ giữa một nước nhỏ và một nước lớn. Trung Quốc cũng là nước có quan hệ thương mại và đầu tư ở Lào đang phát triển mạnh mẽ; là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Lào những năm gần đây9. Có thể nói, Lào gần gũi với Trung Quốc ở mức độ thân thiết chỉ xếp sau Việt Nam, thể hiện ở các chuyến thăm dày đặc lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Nhiều lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc như Giang Trạch Dân, Hồ cẩm Đào, Tập Cận Bình đều đã tới thăm Lào.
Đối với Lào, Trung Quốc là một cường quốc với tiềm năng khổng lồ về nhiều mặt có thể đáp ứng mọi yêu cầu của Lào về phát triển kinh tế - xã hội nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Do đó, về mặt chính sách, hai nước luôn có sự đồng thuận trong các sáng kiến về hợp tác và phát triển trên tất cả các lĩnh vực, nội dung của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp... Tính đến năm 2020, tổng giá trị đầu tư lũy kể của Trung Quốc tại Lào đạt hơn 12 tỷ USD với 785 dự án. Kim ngạch trao đổi thương mại song phương Lào - Trung đạt 3,54 tỷ USD, năm 201910. Về viện trợ kinh tế và cho vay, tính đến năm 2017, Trung Quốc đã dành cho Lào tới 11,5 tỷ USD11. Đặc biệt, một số siêu dự án của Trung Quốc tại Lào đã củng cố vị thế vững chắc của Trung Quốc với tư cách là đối tác kinh tế lớn nhất của Lào12. Rõ ràng, đối với Lào, Trung Quốc là chỗ dựa khá vững chắc, với khả năng tài chính dư thừa, họ sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu hợp tác của Lào.
Thứ hai, trong quan hệ với Thái Lan, mặc dù trải qua nhiều biến cố thăng trầm lịch sử thời phong kiến và thời kỳ cận hiện đại, nhưng mối quan hệ giữa Lào và Thái Lan vẫn là mối quan hệ “đồng chủng, đồng văn”, láng giềng gần gũi. Đây là một thực tế không thể phủ nhận và là lợi thế to lớn của Thái Lan trong tương quan so sánh với quan hệ Lào - Trung, Lào - Việt Nam. Mặc dù có sự khác biệt về thể chế chính trị, nhưng mối quan hệ giao lưu giữa Lào và Thái Lan vẫn rất gần gũi về mọi mặt. Vị thế của Thái Lan trong quan hệ với Lào ngày càng tăng, nhất là về kinh tế và văn hóa. Đặc biệt, người Lào và người Thái rất gần nhau về ngôn ngữ, phong tục, tập quán và lối ứng xử, họ có thể giao tiếp với nhau trong buôn bán và giao lưu mà không cần phiên dịch. Đây là lợi thế lớn của mối quan hệ Lào - Thái Lan mà các đối tác khác, kể cả Trung Quốc và Việt Nam cũng chưa thể có được.
Thứ ba, trong quan hệ với Việt Nam, Lào có mối quan hệ láng giềng hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện với Việt Nam. Đó là mối quan hệ được khởi nguồn và vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước của hai nước13. Trong chính sách đối ngoại của mình, Lào luôn dành ưu tiên cao cho Việt Nam và coi Việt Nam là một đối tác quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế và địa chính trị giữa các nước hiện nay, nhân tố lợi ích đang chịu nhiều chi phối trong chính sách đối ngoại của Lào.
Hiện nay, cả hai nước Lào và Việt Nam đều đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH. Vì lợi ích phát triển kinh tế, cả Lào và Việt Nam đều cần tăng cường thúc đẩy sản xuất, thu hút đầu tư và gia tăng trao đổi thương mại với các nước... Do đó, việc tiếp cận các nguồn lực, các đối tác bên ngoài cho mục tiêu phát triển đều được cả hai quan tâm trong đó Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc,... đều là những đối tác hàng đầu của cả Lào và Việt Nam.
Về chính sách với các nước lớn:
Thứ nhất, từ năm 1975 cho tới đầu thế kỷ XXI, quan hệ giữa Lào và Mỹ rất lạnh nhạt, không hào hứng trong việc thúc đẩy quan hệ song phương. Từ sau Đại hội VIII của Đảng NDCM Lào (2006), mối quan hệ với Mỹ mới dần được coi trọng, đặc biệt sau chuyển thăm Mỹ của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Lào Thonglun Xixulít (2010) thì quan hệ giữa hai nước mới được cải thiện và mở rộng rõ nét. Nhân dịp tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN - Mỹ được tổ chức tại Lào (9-2016), Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có chuyến thăm Lào đầu tiên ở cấp cao nhất. Đây là biểu hiện việc Mỹ đang nỗ lực hàn gắn quá khứ chiến tranh để hướng tới đẩy mạnh hợp tác song phương với Lào.
Thứ hai, Nhật Bản luôn là nhà cung cấp viện trợ ODA lớn nhất cho Lào và Lào có quan hệ khá gắn bó với Nhật Bản về mọi mặt, nhất là lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Nhiều thanh niên Lào có điều kiện về tài chính cũng coi Nhật Bản là một trong những địa điểm du học tốt nhất; thúc đẩy quan hệ toàn diện giữa Lào với Nhật Bản luôn làm mục tiêu nhất quán của Chính phủ Lào. Bên cạnh đó, Lào có mối quan hệ thân tình, thiện cảm với Nga. Nga là nước lớn và có nhiều quan hệ gắn bó với Lào dưới thời Chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, hiện nay do ở quá xa và Nga đang có quá nhiều mối quan tâm “sát sườn” hơn, nên Nga đang coi nhẹ việc quan tâm tới Lào. Về phía Lào, mối quan hệ với Nga nếu được cải thiện cũng sẽ góp phần gia tăng vị thế của Lào .
Với các thể chế đa phương như ASEAN, Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, Liên hợp quốc,...
Thực tế, ASEAN là diễn đàn quan trọng để Lào thể hiện năng lực ngoại giao, phát huy vai trò khu vực và nâng cao ảnh hưởng quốc tế của mình. Lào là thành viên của ASEAN nên quan hệ giữa Lào với các nước thuộc ASEAN nằm trong khung khổ hợp tác ASEAN. Có thể nói, ASEAN luôn là một trụ cột, một ưu tiên chiến lược trong chính sách đối ngoại của Lào. Trước những tác động của tình hình thế giới và khu vực cùng với ảnh hưởng của tình hình kinh tế chính trị xã hội trong nước, Lào càng khẳng định được vị thế của mình trong ASEAN. Với vị trí địa lý nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á lục địa, việc tham gia vào Hiệp hội ASEAN năm 1997 và hội nhập vào Cộng đồng ASEAN tháng 12-2015 là những dấu mốc lịch sử trọng đại đối với CHDCND Lào, tạo điều kiện để Lào - quốc gia không có biển kết nối hoàn toàn với các nước trong khu vực về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hiện nay, với chính sách đối ngoại “đa hướng, đa phương và đa dạng, từng bước mở rộng quan hệ một cách thích hợp theo điều kiện và khả năng thực tế, gắn quan hệ về chính trị, ngoại giao với quan hệ hợp tác về kinh tế trong quan hệ quốc tế”, Lào đã và đang cố gắng hội nhập với thế giới thông qua các thể chế khu vực, trong đó có Chương trình Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) . Mục tiêu của GMS là thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác phát triển kinh tế cùng có lợi giữa các nước thành viên, đưa tiểu vùng Mekong mở rộng thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng ở Đông Nam Á. Nhận thức được điều đó, giống như các thành viên khác, Lào đã rất tích cực tham gia các chương trình hợp tác của GMS. Bên cạnh đó, Lào hiện có quan hệ ngoại giao với 143 nước và gần 140 chính đảng trên thế giới, có quan hệ thương mại với 60 nước và vùng lãnh thổ. Lào là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, như: Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)... Quan hệ giữa Lào với các nước bạn bè chiến lược được phát huy sâu rộng, ngày càng có hiệu quả hơn.
2. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Lào hiện nay
Trước tác động từ tình hình chính trị, đối ngoại, kinh tế, xã hội của Lào trong giai đoạn 10 năm vừa qua (2011 - 2021), để duy trì và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ổn định và phát triển bền vững, đáp ứng lợi ích sống còn của hai nước trong bối cảnh các nước lớn ngày càng gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ ở Lào trên mọi phương diện, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp trong quan hệ với Lào như sau:
Thứ nhất, tiếp tục thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội vững mạnh.
Cùng với Việt Nam, Lào khẳng định quyết tâm không ngừng tăng cường bảo vệ và vun đắp cho mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt nhằm đáp ứng lợi ích của hai nước trong tất cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội. Việt Nam là chỗ dựa quan trọng và vững chắc của Lào trong xu thế phát triển, hội nhập, giữ vững ổn định chính trị, sự lớn mạnh, là cơ sở cho hợp tác chính trị chặt chẽ giữa hai đảng và hai nhà nước; vì vậy, nhiệm vụ xây dụng, củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ chính trị giữa hai nước là một giải pháp chính sách quan trọng. Việt Nam và Lào cần tiếp tục tăng cường hiểu biết, trao đổi với nhau nhiều hơn trên mọi vấn đề; duy trì thường xuyên cơ chế hội đàm cấp cao định kỳ hàng năm và có thể tham vấn không định kỳ giữa hai Bộ Chính trị của hai Đảng, thiết lập đường dây nóng giữa nguyên thủ quốc gia hai nước để trao đổi quan điểm về những vấn đề đối nội và đối ngoại có ảnh hưởng thiết thân đến quan hệ hai nước, cũng như những vấn đề bức xúc nhất trong quan hệ hai nước và quốc tế, bảo đảm được sự đồng thuận về chủ trương chiến lược cũng như chọn lựa các quyết sách và phương thức triển khai chiến lược. Việt Nam cũng cần nhận thức rõ hơn, thông cảm hơn tính chất thực dụng trong các quyết sách hiện nay của Lào nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của Lào, từ đó, ban hành những chính sách ngoại giao, hợp tác và hỗ trợ phù hợp hơn, thiết thực hơn đối với Lào.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường hỗ trợ xây dựng nguồn cán bộ cho Lào. Lợi thế cơ bản của Việt Nam hiện nay là ở Lào có một đội ngũ rất đông đảo cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ trung ương đến địa phương được học tập và đào tạo tại Việt Nam nên rất gắn bó với Việt Nam. Đây là tiền đề cho sự hợp tác gắn bó mật thiết giữa hai nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Tuy nhiên, phần lớn lớp cán bộ nói trên sẽ lần lượt nghỉ hưu trong tương lai gần, trong khi lớp cán bộ kế cận của Lào, những người gắn bó với Việt Nam cả về tư tưởng chính trị, tình cảm và quyền lợi sẽ không còn nhiều như trước. Vì thế, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hỗ trợ đào tạo cán bộ chính trị Lào. Để thực hiện tốt hoạt động này cần đầu tư nguồn lực thích đáng, coi đây là một trong những chính sách quan trọng nhất để tiếp tục xây dựng, củng cố và phát huy quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Công tác đào tạo cán bộ chính trị Lào cần mở rộng hơn nữa, không chỉ giới hạn ở cấp trung ương, cấp tỉnh, mà cả ở các cấp địa phương; đồng thời cần chú trọng đào tạo các thế hệ cán bộ trẻ để chuẩn bị tốt cho tương lai.
Thứ hai, đẩy mạnh, tăng cường hợp tác về kinh tế bền vững, cùng có lợi
Trong những năm qua, quan hệ hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào diễn ra liên tục và không ngừng phát triển với nhiều thuận lợi và cũng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng còn một số nhược điểm, hạn chế khiến cả hai bên chưa được thỏa mãn, như việc phối hợp thực hiện các cơ chế hợp tác đầu tư chưa được thông suốt, năng lực tài chính của hai bên còn yếu kém. Vì vậy, thời gian tới, Việt Nam cần thúc đẩy mạnh hơn mối quan hệ hợp tác đầu tư cho tương xứng với mối quan hệ hữu nghị đặc biệt về mặt chính trị giữa hai nước. Theo đó, chính sách hợp tác đầu tư cần tập trung vào các dự án mang tính chiến lược, như các dự án bổ sung đào tạo nguồn nhân lực, các dự án giải quyết việc làm, các dự án phục vụ xóa đói giảm nghèo, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu Việt Nam - Lào; phát triển các khu đô thị, khu du lịch, khu thương mại dịch vụ, sản xuất và chế biến nguyên liệu từ cây công nghiệp ở Lào,...
Mặt khác, Việt Nam cần có những ưu tiên đối với những chính sách mang tầm chiến lược trong quan hệ hợp tác thương mại với Lào, đặc biệt là những chính sách tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa việc thúc đẩy hoạt động thương mại, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, tạo công ăn việc làm, đảm bảo an sinh xã hội cho cả hai bên; coi trọng chính sách hợp tác thương mại biên giới, xây dựng và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu; chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại ở Lào. Việt Nam hiện là cửa ngõ xuất, nhập khẩu của Lào đối với thế giới và là thị trường tiềm năng về vốn, hàng hoá, nguyên liệu, nhiên liệu, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, có khả năng điều hòa các sức ép cạnh tranh về kinh tế, văn hóa đối với Lào,…; ngược lại, Lào với tư cách là “một trạm trung chuyển” trong nền kinh tế Tiểu vùng Mekong mở rộng, lại là thị trường đầu tư đầy triển vọng về tài nguyên, khoáng sản, điện năng, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ,… nên có khả năng điều hòa các sức ép cạnh tranh về kinh tế, văn hóa đối với Việt Nam, giúp Việt Nam mở rộng thị trường sang khu vực Đông Nam Á, châu Á, Ấn Độ Dương và thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam cần có chủ trương trợ cước vận tải, tạo điều kiện giúp đỡ cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất, kinh doanh buôn bán ở Lào, tạo cho họ có vị thế trên thị trường Lào. Vì vậy, Việt Nam cần tính toán, giảm các loại chi phí liên quan đến việc sử dụng các cảng biển, hỗ trợ đầu tư cho các nhà máy sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở một số khu vực của Lào như Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Bôlikhămxay,... để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và làm tăng nguồn hàng hóa được vận chuyển từ Lào qua các cảng biển ở Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại Lào cần chủ động hơn nữa trong hoạt động kinh doanh, năng động, linh hoạt nắm bắt tình hình thực tế để sớm có sự điều chỉnh hoạt động phù hợp với điều kiện thị trường Lào và các thị trường xuất khẩu của Lào.
Về vấn đề viện trợ, Việt Nam cần phải cố gắng giữ vị trí dẫn đầu về hợp tác viện trợ phát triển cho Lào dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm thắt chặt hơn mối quan hệ giữa hai Đảng, hai nước và niềm tin của nhân dân các dân tộc Lào về tiềm lực của nền kinh tế Việt Nam. Chính sách viện trợ cần ưu tiên viện trợ tập trung “đúng chỗ, đúng tầm”. Những chương trình, dự án đã thỏa thuận phải hoàn thành đúng tiến độ, bảo đảm uy tín đối với các chương trình, dự án viện trợ của Việt Nam, trong đó, cần ưu tiên các chương trình, dự án mang tính xã hội có tác động trực tiếp vào việc tăng cường quan hệ; các chương trình, dự án điều tra, quy hoạch cơ bản, dự án cơ sở hạ tầng có tác động trực tiếp thúc đẩy đầu tư, thương mại và phát triển kinh tế; các chương trình, dự án bảo vệ môi trường sinh thái và góp phần củng cố an ninh, phát triển ổn định vùng biên giới hai nước,…
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển quan hệ an ninh - quốc phòng
Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh giữa hai nước có truyền thống từ thời kỳ đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc. Đảng, Nhà nước và quân đội Việt Nam luôn luôn coi nhiệm vụ đoàn kết, phối hợp chiến đấu và giúp đỡ nhân dân, quân đội Lào anh em là một nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất, và đã kiên trì, liên tục thực hiện nhiệm vụ đó ngày càng có hiệu quả, góp phần đưa cách mạng Lào, cũng như cách mạng Việt Nam đến thắng lợi trọn vẹn, triệt để trong năm 1975. Về phía Lào, Đảng, Nhà nước, các lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào, cũng đánh giá cao sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ của Việt Nam, coi “liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam - Campuchia và quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam là một trong những nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Lào”14. Việc ổn định về chính trị - an ninh ở Lào trước hết có tác động đến chính trị - an ninh của Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam không thể có an ninh, bình yên bền vững nếu tình hình chính trị - an ninh của Lào có biến động và ngược lại.
Thứ tư, thúc đẩy hợp tác quan hệ Việt Nam - Lào trong khuôn đa phương
Để hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào có hiệu quả thực sự và ngày càng phát triển, cần coi trọng tính cạnh tranh trong hợp tác song phương và đa phương, thúc đẩy hợp tác kinh tế cùng có lợi, thể hiện ở nhiều hình thức từ thấp đến cao với từng bước đi vững chắc, cần thực sự tính đến lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, sự nhân nhượng nhau phải hợp lí. Cần phát huy vai trò điều phối của Việt Nam trong các cơ chế, diễn đàn hợp tác chính trị quốc phòng, an ninh, kinh tế có sự tham gia của Lào; phối hợp với Lào và các quốc gia ASEAN khác hình thành cách tiếp cận chủ động của Hiệp hội đối với các vấn đề đang nổi lên ở khu vực GMS. Với vị thế khu vực và quốc tế ngày càng tăng lên thời gian qua, Việt Nam có thể phát huy hơn nữa vai trò điều phối của mình trong các cơ chế, diễn đàn hợp tác kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh có sự tham gia của Lào. Trong đó, có thể tập trung vào vai trò điều phối trong quan hệ giữa Mỹ và khu vực tiểu vùng Mê Công; giữa Mỹ và Lào; trong các khuôn khổ hợp tác Campuchia- Lào-Việt Nam (CLV), Hội nghị cấp cao Campuchia - Lào - Myanma - Việt Nam (CLMV).
Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn, tiếp xúc cấp cao, triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác song phương; tăng cường tin cậy chính trị; nâng cao hiệu quả hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị ngoại giao, an ninh quốc phòng, kinh tế, thương mại,... với Lào. Cùng Lào quyết tâm triển khai hiệu quả các Nghị định thư về hợp tác quốc phòng, an ninh giai đoạn 2016-2020, Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam - Lào và Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới hai nước (2016); hiệp định Thương mại mới và Hiệp định Thương mại biên giới Việt Nam - Lào (2015), không ngừng tăng cường và nâng cao tính kết nối, bổ trợ giữa hai nền kinh tế (kết nối năng lượng, giao thông vận tải…). Mặt khác, cần tiếp tục ủng hộ và phối hợp chặt chẽ với Lào tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN và các cơ chế hợp tác tiểu vùng; phối hợp chặt chẽ nhằm củng cố đoàn kết ASEAN, nâng cao vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn ở Biển Đông; nhất trí cùng các nước ASEAN thúc đẩy giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; cùng các bên thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới15.
Ngày nhận bài 2/7/2023; ngày thẩm định 8/7/2023; ngày duyệt đăng 13/7/2023
1.Chính phủ Lào: Tổng kết phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ 1975 đến 2005, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn, 2006
2. Xem: Minh Ngọc: “Đại hội XI Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: Triển khai đường lối đổi mới đi vào chiều sâu, tạo chuyển biến mạnh mẽ”, Trang Thông tin điện tửu tổng hợp Ban Đối ngoại Trung ương, ngày 25-1-2021, https://bdntw.org.vn/dai-hoi-xi-dang-nhan-dan-cach-mang-lao-trien-khai-duong-loi-doi-moi-di-vao-chieu-sau-tao-chuyen-bien-manh-me-101525.html
3.https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_i-/l/chi-tieĩ-tin?đDocName=MOFUCM229643,
4.https://wits. worldbank.org/CoimtrySnapshoƯen/LAO, truy cập ngày 15-3-2022.
5.https://www.trade.gov/countrv-commercial-guides/laos-market-ovei-view, truy cập ngày 15-3-2022.
6. Cơ sở hạ tầng - Thách thức lớn nhất trong tiến trình phát triền kinh tế Lào https://bnews.vii/co-so-ha-tang-tiiach-thuc-ion-nhat-trong-tien-tanh-phat-trieii-kinh-te-lao/74369.htrnl
7. Tiềm năng và thách thức với phát triền năng lượng điện của Lào, https://niott.gov.vn/tin-tuc/phat-trieti-nang-hiong/fiem-nang-va-thach-thuc-voi-phat-trien-rvang-luong-dien-cua- lao.htmi. truy cập ngày 16-6-2022.