Tóm tắt: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích trong thế kỷ XX, trong đó, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là một mốc son chói lọi. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng mang tính chiến lược của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là chiến thắng của nghệ thuật chỉ đạo chuyển phương châm tác chiến chiến lược từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” của Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh, của Bí thư Đảng uỷ, Tư lệnh Mặt trận Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đây là một quyết định chính xác mang tính lịch sử, khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong chỉ đạo chiến dịch của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Từ khóa: Điện Biên Phủ; 1954

1. Sau 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đến năm 1953 thực dân Pháp đã bị thất bại liên tiếp, vùng chiếm đóng bị thu hẹp và ngày càng lún sâu trong thế bị động. Cuộc chiến tranh đã gây nên khủng khoảng toàn diện và nặng nề cả về quân sự, chính trị và kinh tế cho nước Pháp. Để cứu vãn tình thế, với bản chất hiếu chiến, ngoan cố và được sự hà hơi, giúp sức của Mỹ, Pháp chủ trương tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh bằng cách tăng thêm lực lượng, thay đổi kế hoạch tác chiến, đưa nhiều tướng lĩnh có kinh nghiệm trận mạc sang lãnh đạo, chỉ huy nhằm giành lấy một thắng lợi quân sự trước khi rút khỏi cuộc chiến tranh trong “danh dự”. Do vậy, ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp cử tướng H. Navarre, Tổng Tham mưu trưởng Lục quân khối Bắc Đại Tây Dương sang thay tướng R.Salan làm Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau hơn một tháng khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến trường, đầu tháng 7-1953 H. Navarre đưa ra kế hoạch mang tên ông ta nhằm mục tiêu kết thúc chiến tranh Đông Dương trong 18 tháng, được Hội đồng Chính phủ và Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24-7-1953. Kế hoạch Navarre gồm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, trong Thu Đông 1953 và Xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở phía Bắc vĩ tuyến 18; tiến công bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương; xóa bỏ vùng tự do Liên Khu V, tiến công chiến lược ở phía Nam; giai đoạn thứ hai, Thu Đông 1954 và Xuân 1955, tiến công chiến lược miền Bắc, giáng đòn quyết định tạo thế mạnh trên bàn đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Pháp.

Trên chiến trường, H. Navarre và Bộ Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp triển khai ra quân khá rầm rộ tập trung một lực lượng cơ động gồm 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ, cho mở nhiều cuộc càn quét ở địa bàn này tiến công Ninh Bình, Nho Quan, uy hiếp Thanh Hóa; nhảy dù xuống Lạng Sơn, uy hiếp Phú Thọ; đồng thời, cho thổ phỉ quấy rối lực lượng cách mạng ở Tây Bắc.

Trước âm mưu và hành động của thực dân Pháp, tháng 9-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy họp tại Tỉn Keo (Định Hoá, Thái Nguyên), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954. Hội nghị xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là: “Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ thời cơ tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta... Tiến hành mọi sự cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ, ... Phương châm chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”1. Cũng tại Hội nghị, khi phân tích về thế địch, thế ta và tình hình thực tế trên chiến trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh… Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó sẽ không còn”2. Thực hiện chủ trương đó, giữa tháng 11-1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, một bộ phận khác tiến sang Trung Lào phối hợp với quân giải phóng Lào uy hiếp quân Pháp ở địa bàn này.

Nắm được động thái của quân ta ngày 20-11-1953, H. Navarre điều động 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, từng bước biến nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp và quyết định mở Chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ, với mật danh “Trần Đình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy toàn dân, toàn quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”3. Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh, Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tham mưu trưởng; Đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chủ nhiệm4 .

2. Từ tháng 12-1953, thực dân Pháp tập trung xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thành một pháo đài với nhiều binh lực, vũ khí, trang bị hiện đại, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, ngoài ra còn có các đơn vị công binh, cơ giới, xe tăng, máy bay… hầu hết là những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến nhất trong quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương5. Tổng số binh lực ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất khoảng trên 16.200 quân; 49 cứ điểm, chia thành 8 cụm tổ chức liên hoàn với nhau. Mỗi cụm cứ điểm là một khu vực phòng ngự - một “trung tâm đề kháng”, có lực lượng cơ động và lực lượng phòng ngự, có hỏa lực riêng, xung quanh có nhiều hàng rào dây thép gai và cài mìn xen kẽ. Các “trung tâm đề kháng” này lại được liên kết với nhau trong 3 phân khu: phân khu Bắc (có 2 trung tâm đề kháng), phân khu Nam (có 1 trung tâm đề kháng) và phân khu Trung tâm (có 5 trung tâm đề kháng). Các trung tâm đề kháng được bố trí trên một không gian tương đối rộng, có khả năng phòng ngự độc lập với hệ thống công sự trận địa vững chắc và hỏa lực mạnh như súng cối, súng phun lửa… Ngoài ra, Pháp còn xây dựng 2 sân bay ở Điện Biên Phủ là Mường Thanh và Hồng Cúm để phục vụ nhu cầu tiếp tế, chi viện  bằng đường không cho Điện Biên Phủ. Với những cố gắng đó của Pháp, Điện Biên Phủ đã trở thành pháo đài khổng lồ giữa vùng núi Tây Bắc. Quân Pháp cho rằng quân đội Việt Nam tấn công Điện Biên Phủ chắc chắn sẽ thất bại6. Tuy nhiên, quân Pháp không biết rằng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn quân, toàn dân Việt Nam đã lên cao nhất trong chiến dịch lịch sử này. Trong khi đó, đối với quân Pháp, Điện Biên Phủ lọt sâu vào vùng giải phóng giữa núi rừng hiểm trở, mọi nguồn vận chuyển, tiếp tế và tăng viện chỉ có thể dựa vào đường trên không. Trường hợp cầu hàng không bị cắt, Điện Biên Phủ sẽ bị cô lập hoàn toàn.

Về phía ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ đẩy quân Pháp ở Đông Dương vào thế thất bại hoàn toàn, nhưng đây là thử thách rất lớn, một yêu cầu rất cao so với trình độ của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ. Mặc dù quân ta đã tạo ra được thế và thời cơ thuận lợi, nhưng phương án tác chiến như thế nào để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương bảo đảm chắc thắng là một câu hỏi lớn. Ban đầu quân ta đề ra phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong khoảng thời gian ngắn 3 đêm, 2 ngày.  Tuy nhiên, phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” không có lợi vì quân đội Việt Nam chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm và đánh hiệp đồng lớn,… Đánh nhanh đòi hỏi bộ đội ta phải đột phá liên tục suốt đêm ngày, vận động trên địa hình trống trải dễ bị hỏa lực của Pháp sát thương,…

Trong chiến dịch, bộ đội Việt Nam có hai khối chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh và trực thuộc các Liên khu, với các đơn vị, binh chủng: bộ binh, pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh, thông tin,… Các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ gồm các Đại đoàn 308, 312, 316, Trung đoàn 57 (thuộc Đại đoàn 304), Đại đoàn Công pháo 351, Trung đoàn pháo cao xạ 367, 4 tiểu đoàn công binh và các đơn vị thông tin, vận tải, quân y... Tổng quân số chủ lực trên chiến trường khoảng hơn 40.000 người, nếu tính cả tuyến hai là khoảng hơn 55.000 người7 (phía Pháp là hơn 16.000 lính). Song về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế hơn quân đội Việt Nam, nhất là về đạn pháo, máy bay và xe tăng… “Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có sức mạnh hỏa lực đáng gờm, các tướng Pháp đến thăm đều nhất trí cho rằng Việt Minh không thể thắng được. Đó là không kể có một lực lượng không quân yểm trợ khiến Việt Minh hoàn toàn bất ngờ” 8. Mặt khác, quân Pháp được bảo vệ trong hệ thống công sự trận địa vững chắc, với nhiều trung tâm đề kháng. Nếu không có phương án tác chiến đúng đắn và cách đánh phù hợp, quân ta khó có thể thắng quân Pháp.

Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bí thư Đảng uỷ, Tư lệnh Mặt trận Điện Biên Phủ đã quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Đây là một quyết định mang tính lịch sử trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và quyết tâm của toàn quân, toàn dân Việt Nam

Thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc", công tác chuẩn bị chiến dịch phải nhiều hơn, thời gian thực hiện chiến dịch cũng dài thêm, nhưng về mặt nghệ thuật chiến dịch cho phép ta tạo ra ưu thế lớn không chỉ về mặt binh lực mà cả về hỏa lực, bảo đảm chắc thắng trong từng trận đánh, trong khi so sánh chung toàn chiến dịch ta không có ưu thế nhiều hơn địch. Mặt khác, thực hiện “đánh chắc, tiến chắc” là phù hợp với trình độ khả năng tác chiến của bộ đội ta lúc bấy giờ, bộ đội ta mới chỉ có kinh nghiệm tiến công tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm có tiểu đoàn địch đóng giữ, nay tiến lên một bước là tiêu diệt cụm cứ điểm nằm trong tập đoàn cứ điểm. Mặc dù quân Pháp trong từng cứ điểm được chi viện mạnh bằng hoả lực phi pháo và cả bộ binh, xe tăng song bộ đội Việt Nam đã tổ chức kiềm chế ngăn chặn, do vậy mà bảo đảm chắc thắng. Hơn nữa, “đánh chắc, tiến chắc” ta có điều kiện để điều tra, nghiên cứu nắm chắc tình hình quân Pháp ở từng mục tiêu tiến công trên chiến trường, ta có thời gian chuẩn bị chu đáo về mọi mặt bảo đảm chắc thắng mới đánh, thể hiện sự cẩn trọng của nhà cầm quân “biết mình, biết người” mà còn là trách nhiệm, là “lòng nhân” của vị chỉ huy cao nhất trong quân đội đối với vận mệnh dân tộc và sinh mệnh người lính trên chiến trường. Với cách đánh như vậy, bộ đội Việt Nam sẽ vừa đánh vừa rút kinh nghiệm; vừa đánh vừa củng cố trận địa và càng đánh càng mạnh; đồng thời chúng ta sẽ khoét sâu được nhược điểm rất cơ bản của quân Pháp về tiếp tế hậu cần, về ý chí, tư tưởng lo lắng bị bao vây, cô lập khi bị bộ đội Việt Nam khống chế, triệt tiêu khă năng tiếp viện đường không đối với Điện Biên Phủ.

Ngày 13-3-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ mở đầu và kết thúc ngày 7-5-1954, quá trình chiến diễn biến qua 3 đợt: đợt 1, từ ngày 13-3 đến ngày 17-3; đợt 2, từ ngày 30-3 đến ngày 30-4; đợt 3, từ ngày 1-5 đến ngày 7-5-1954. Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc” bộ đội Việt Nam đã bao vây quân Pháp, kiên cường, bền bỉ chiến đấu liên tục trong suốt 56 ngày đêm và đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ, giành thắng lợi trọn vẹn. Toàn bộ số quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bắt sống, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh và dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh với tổng số hơn 16.000 người, trong đó bắt sống toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm do tướng D. Castries đứng đầu; bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, bắn hỏng 4 xe tăng; thu 30 trọng pháo, 6 xe tăng, hơn 30.000 chiếc dù cùng toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng khác9.

Có được chiến thắng này là do sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự chỉ đạo sâu sát, sáng tạo của Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp -  vị Tổng Tư lệnh của Chiến dịch Điện Biên Phủ; tinh thần chiến đấu anh dũng của cán bộ, đảng viên, bộ đội trên toàn mặt trận; sự chi viện to lớn của hậu phương và phối hợp giữa các chiến trường. Thắng lợi của Chiến dịch đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược, những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève (7-1954), chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ thể hiện tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chủ động, sáng tạo của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh; tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ quân đội và nhân dân Việt Nam, mãi mãi là một bài học lịch sử chứng minh cho sức mạnh tiềm lực về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người chỉ huy cao nhất trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã đúc kết: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là công đầu thuộc Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà chiến lược thiên tài, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam”10. Con người ấy không chỉ “dám đánh” mà còn “biết đánh” và “biết thắng”. Phát huy hào khí của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, quân và dân Việt Nam tiếp tục giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam đang ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII (2021) của Đảng để thực hiện khát vọng đến năm 2045 trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN.

1. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam (Biên niên sự kiện), Nxb QĐND, H, 1995, tr. 119

2 3. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb CTQG-ST, H, 2016, T. 5, tr. 301, 323

4. Ban nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H, 1994, T.1, tr. 405

5, 6. Dẫn theo: Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb ST, H, 1958, tr. 22, 22

7. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb QĐND, H, 2000, T. 5, tr. 189-254

8. Georges Boudarel: Võ Nguyên Giáp, Nxb Thế giới, H, 2012, tr. 204 (bản dịch của Nguyễn Văn Sự)

9. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb QĐND, H, 2001, tr. 289 

10. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb QĐND, H, 2000, tr. 294.