Tóm tắt: Sau Hiệp định Genève, Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam ra sức đàn áp phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ hòng tiêu diệt cơ sở cách mạng miền Nam bằng các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”. Trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù, phong trào cách mạng ở miền Nam bị tổn thất lớn, cán bộ, đảng viên hy sinh nhiều, quần chúng bị kìm kẹp gắt gao, phong trào cách mạng bị đẩy lùi. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, ác liệt đó, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng vẫn kiên cường bám đất, bám dân, xây dựng tổ chức đảng và cơ sở quần chúng, đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” của địch. Một trong những sáng tạo của các tổ chức đảng ở miền Tây Nam Bộ là thành lập các làng ở trong rừng (Làng rừng) nhằm tránh sự khủng bố của địch, tiếp tục tập hợp quần chúng kiên cường đấu tranh chống địch; trong đó là các Làng rừng ở tỉnh Cà Mau. Bài viết làm rõ sự ra đời của Làng rừng ở Cà Mau và hoạt động của Làng rừng - căn cứ lòng dân, nơi bảo toàn và phát triển lực lượng cách mạng.
Từ khóa: Làng rừng; tỉnh Cà Mau; sáng tạo độc đáo
1. Sự ra đời của làng rừng ở Cà Mau
Sau khi được dựng lên nắm chính quyền tay sai của đế quốc ở miền Nam, Ngô Đình Diệm ráo riết xây dựng bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, đồng thời lập ra các tổ chức chính trị phản động như đảng Cần Lao nhân vị, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới, Tập đoàn công dân... để tạo cơ sở xã hội, làm hậu thuẫn cho chính quyền tay sai của Mỹ. Với âm mưu xóa sạch vết tích của chính quyền và cơ sở cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp quản những vùng giải phóng ở miền Nam đến đâu, Ngô Đình Diệm và chính quyền tay sai thực hiện ngay chế độ thiết quân luật, bắt tù, giết hại cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ đến đó.
Mỹ và chính quyền tay sai mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá các khu căn cứ kháng chiến cũ và cơ sở cách mạng, kết hợp với thực hiện chính sách “tố cộng”. Những hành động nguy hiểm này của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây nên nhiều tội ác đối với đồng bào miền Nam. Bằng những thủ đoạn thâm độc, hết sức tàn bạo, từ mua chuộc, dụ dỗ, đến bắt giam, đánh đập, tra tấn dã man theo công nghệ Mỹ, chúng buộc nhân dân miền Nam phải tham gia các lớp “chỉnh huấn” tố cộng, ly khai Đảng, xé cờ, ảnh lãnh tụ cách mạng ta. Khẩu hiệu “đạp lên oán thù, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” được Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm nêu thành phương châm hành động. Cảnh sát, mật vụ sục vào từng gia đình, lùa bắt người dân phải chỉ điểm cán bộ để chúng bắt. Vừa bắn giết những người yêu nước và cách mạng, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm vừa mua chuộc, chiêu hàng, sử dụng những phần tử dao động, phản bội bằng khẩu hiệu “dĩ đảng trị đảng, dĩ dân trị dân”. Chúng phân loại nhân dân, gây hận thù, chia rẽ trong mỗi địa bàn dân cư, dùng công dân loại này công kích công dân loại kia, bắt làm tờ khai gia đình, bắt lập “ngũ gia liên bảo”, “liên gia tương trợ”; ra thông báo buộc cán bộ cách mạng ra trình diện. Thâm độc hơn, chúng còn lập “lực lượng quốc gia áo đen” (quân phục màu đen như Vệ quốc Đoàn Nam Bộ), tung tin là lực lượng vũ trang của Việt Minh để lại. Lực lượng này đã ra sức cướp bóc nhân dân, gây sự hiểu lầm trong nhân dân về Việt Minh.
Biết được chỗ dựa chắc chắn nhất của Đảng chính là nhân dân, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi biện pháp tách dân khỏi sự ảnh hưởng của Đảng bằng các chính sách xây dựng “khu trù mật”, “khu dinh điền”, “làng kiểu mẫu”... Chính quyền Sài Gòn hy vọng “khu trù mật” sẽ “tách quần chúng ra khỏi những phần tử cảm tình với cộng sản, lùa cộng sản vào rừng để chúng bị cô độc, thiếu thốn, đói khát, rồi bị tiêu diệt”1. Chính sách lập “khu dinh điền” được Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện từ năm 1956-1957 và đẩy mạnh từ giữa năm 1958. Mục đích của những khu dinh điền này là quân sự, nhằm bảo vệ an ninh tại vùng cộng sản thâm nhập đồng thời thiết lập một cơ cấu kiểm soát các khu tiếp cận2. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm huy động các lực lượng vũ trang từ quân chính quy đến quân địa phương và cảnh sát, mật vụ để tập trung đánh phá nông thôn: “Quân đội bao vây, bảo an lục soát, dân vệ dò xét những cuộc vận chuyển và hành tung của cộng sản”3. Chúng tăng cường càn quét, chà đi xát lại, nhằm đẩy mạnh phong trào “tố cộng, diệt cộng” ở các địa phương. Ở xã, thôn, lực lượng công an, mật vụ, hương vệ đoàn, các liên gia trưởng tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng. Một số tề điệp công khai, đa số là cộng tác viên bí mật báo tin lĩnh thưởng, trung bình mỗi xã có 10 đến 15 người, có xã lên đến 40 - 50 người, ngày đêm rình rập. Đến đầu năm 1959, tại đồng bằng Nam Bộ, “Địch đã thực sự làm chủ xóm ấp, một hai tên phản động cũng làm cho hàng trăm, hàng ngàn quần chúng phải sợ sệt, phải thi hành mệnh lệnh của chúng”3. Chính vì vậy, hoạt động của cán bộ, đảng viên hết sức khó khăn. Quần chúng bị kiểm soát gắt gao, không dám tiếp xúc với cán bộ, không dám nhận công tác cách mạng.
Tại Cà Mau, địch dựng lên bộ máy chính quyền cai trị từ tỉnh đến xã, ấp để kìm kẹp và ngày càng ra sức đàn áp khủng bố phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân. Ngô Đình Diệm chỉ đạo thành lập biệt khu Hải Yến - Bình Hưng để thực hiện khủng bố phong trào cách mạng, thẳng tay đàn áp, bắn giết những người mà chúng cho là Việt cộng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ bằng những hành động man rợ: bắn giết, cắt cổ, mổ bụng, moi gan, đã làm cho khoảng 1.600 cán bộ, đảng viên và đồng bào, chiến sỹ bị sát hại5.
Không cam chịu ách cai trị tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm, nhân dân Cà Mau đã trốn khỏi các khu tập trung, sống “bất hợp pháp” trong các khu rừng. Phong trào sống “bất hợp pháp” phát triển mạnh, trở thành một hiện tượng độc đáo ở Cà Mau với sự xuất hiện các “làng rừng”, còn gọi là các “túi bất hợp pháp”. Đây là sự sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Cà Mau, trong tình thế khó khăn, cấp bách đã tìm ra con đường riêng, đó là vào rừng lập căn cứ chống địch - Căn cứ Làng rừng.
Thực hiện chủ trương đấu tranh hợp pháp của Trung ương Đảng nhưng trước yêu cầu phải bảo vệ tính mạng cho nhân dân, Tỉnh ủy Cà Mau đã chủ động, sáng tạo đề ra chủ trương “Phải xây dựng căn cứ làng rừng để tạo chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo và bộ đội tập trung; đồng thời để có nơi giữ gìn cán bộ, đảng viên bị lộ, bị địch truy lùng khủng bố, chờ thời cơ nổi dậy. Đồng chí Trần Văn Yến (Năm Kim), Bí thư Huyện ủy Ngọc Hiển, được phân công phụ trách Làng rừng6.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Trần Văn Thời quyết định xây dựng những Làng rừng thành những khu căn cứ cách mạng để bảo vệ lực lượng cách mạng trước hành động bạo lực của địch và cũng là để chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến lâu dài. Năm 1958, tại huyện Trần Văn Thời có 6 Làng rừng: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Trần Hợi… Huyện uỷ chỉ đạo đảng bộ các xã chỉ sắp xếp cán bộ, đảng viên bị lộ, không còn giữ được thế đứng trên địa bàn và đang bị địch truy bắt, vào Làng rừng. Những cán bộ, đảng viên chưa bị lộ tiếp tục bám quần chúng, bám cơ sở cách mạng ở lại làng cũ để tiếp tục hoạt động.

Căn cứ Làng rừng tiếp tục được phát triển, trong những năm 1958-1960, cán bộ, đảng viên và nhân dân Cà Mau xây dựng được 15 Làng rừng với khoảng 20.000 dân, tập trung ở 19 xã với hàng trăm ấp. Trong các Làng rừng đều có các đội du kích từ 40-60 người, có hệ thống bố phòng, có Ban tự quản, do chi bộ Đảng công khai lãnh đạo. Trong Làng rừng có trạm xá, trường học, hoạt động văn nghệ, tổ chức đời sống mới.
Làng rừng là những thôn, ấp do nhân dân làm chủ, tự xây dựng để chống lại Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Làng rừng là những căn cứ an toàn, giải quyết được hàng loạt vấn đề từ ổn định tư tưởng cán bộ, đảng viên đến tích lũy vật chất, bảo vệ và phát triển lực lượng cách mạng.
Việc xuất hiện các Làng rừng cho thấy một thực tế là nhân dân miền Nam không thể sống dưới ách thống trị tàn bạo của Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Muốn sống, nhân dân miền Nam phải không hợp tác với chính quyền tay sai, phải vùng lên đánh đổ chế độ tay sai Mỹ. Sau này, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cho rằng: “Khi địch lê máy chém đi khắp miền Nam, đưa sự tàn bạo phát xít đến tột cùng, thì ở Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu) có hàng vạn thanh niên vào rừng U Minh. Một không khí cách mạng lại bùng lên. Chính thực tế đó của Minh Hải đã giúp cho Trung ương thấy rõ cần phải phát động quần chúng vùng dậy đấu tranh”7.
Làng rừng là hình thức nhân dân vào xây cất nhà cửa ở trong rừng, sống tập trung theo từng cụm dân cư ở các gò cao trong rừng. Nhà ở trong Làng rừng có diện tích trung bình từ 20 - 25 m2, nhà đông người diện tích từ 40 - 50 m2, được xây cất toàn bộ bằng cây tràm, mái lợp vỏ tràm. Để bảo vệ căn cứ và đảm bảo bí mật, Huyện uỷ chỉ đạo lực lượng đi đến những cánh rừng ở xa, lựa những cây tràm lớn và khoanh vỏ để lột, chừa lại một lớp vỏ mỏng bảo vệ thân để cây không bị chết. Có nhà lợp bằng lá mật cật (loại lá làm nón) chằm lại thành tấm để lợp và dựng vách. Một số nhà làm gấp, lợp bằng nilon phía trên phủ dớn (choại) ở tạm thời gian ngắn. Mỗi nhà đều có giếng nước sinh hoạt, vào mùa khô thì đào sâu khoảng 0,5 m để lấy nước. Mỗi nhà đều có dụng cụ như: lu, khạp, thùng… để chứa nước8. Từ chợ đến rừng phải qua nhiều kênh rạch chằng chịt, đến bìa rừng có một trạm tiếp nhận. Từ đó phải đi bộ từ 7 đến 8 km mới đến căn cứ Làng rừng. Trong Làng rừng, nhân dân được bố trí theo xóm, ấp ở như làng cũ, cuộc sống ổn định, thương yêu, đùm bọc, tương trợ lẫn nhau. Mọi người tích cực tham gia sản xuất, cải thiện cuộc sống. Các hoạt động học tập, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí được tổ chức thường xuyên như một xã hội thu nhỏ.
Để bảo tồn lực lượng cách mạng, Đảng bộ huyện Trần Văn Thời chỉ đạo thành lập 3 loại chi bộ: Chi bộ hợp pháp ở làng cũ bám vào dân hoạt động, chi bộ võ trang tuyên truyền công khai đánh địch và chi bộ bí mật ở Làng rừng. Các chi bộ luôn kết hợp chặt chẽ với nhau để hoạt động cùng tồn tại và phát triển. Nhiều cơ sở được củng cố vững chắc, xây dựng lực lượng ngày càng lớn mạnh về mọi mặt. Ở Làng rừng, huyện đã xây dựng xưởng sản xuất vũ khí và nhiều tổ sản xuất vũ khí quy mô nhỏ ở xã, như: kéo cổ phảng làm mã tấu, dao găm và một số loại vũ khí thô sơ khác; thanh niên nam, nữ, các đội du kích tăng cường luyện tập võ thuật, kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu, phân công lực lượng canh gác ngày đêm để chống địch xâm nhập. Người dân Làng rừng và người dân các xóm làng cũ luôn có sự hỗ trợ lẫn nhau. Chiều xuống, những cán bộ, đảng viên ở Làng rừng được phân công len lỏi ra các làng cũ cùng với những cán bộ, đảng viên bám trụ ở cơ sở và quần chúng nhân dân đẩy mạnh hoạt động, tích cực hỗ trợ phát triển phong trào quần chúng. Từng đảng viên ở các đảng bộ, chi bộ xã, ấp bám sát nhiệm vụ cách mạng, tăng cường vận động quần chúng, dựa vào cơ sở xóm, ấp. Ở xóm làng cũ nhân dân một lòng hướng về Đảng, về nhân dân Làng rừng, tìm đủ mọi cách để gửi lương thực, thuốc men và các vật dụng sinh hoạt chi viện vào căn cứ cách mạng. Nhờ đó đã chống được sự khủng bố và các chính sách kiểm soát gắt gao của chính quyền tay sai, các lực lượng vũ trang, du kích không ngừng được củng cố và phát triển. Tiêu biểu là Làng rừng ở Khánh Bình Tây có từ 5.000 đến 7.000 dân9. Cùng với việc củng cố tổ chức đảng, xây dựng lực lượng vũ trang, du kích ở Làng rừng còn liên hệ với chi bộ ở làng cũ để trừ gian, diệt ác và đã tiêu diệt được nhiều tên ác ôn khét tiếng có nợ máu với nhân dân, đồng thời kết hợp với tuyên truyền giáo dục thuyết phục được nhiều đối tượng từ bỏ hàng ngũ của địch về với cách mạng.
2. Làng rừng - căn cứ lòng dân, nơi bảo toàn và phát triển lực lượng cách mạng
Làng rừng ra đời là sự sáng tạo độc đáo của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau, biết dựa vào địa hình hiểm trở, nhiều kênh rạch chằng chịt, cây rừng rậm rạp để xây dựng một căn cứ địa vững chắc. Làng rừng là hình thức tổ chức phù hợp với điều kiện tự nhiên dưới tán rừng ngập nước ở bán đảo Cà Mau và là mô hình để bảo vệ lực lượng cách mạng chống lại sự khủng bố tàn bạo của kẻ thù. Đặc biệt, các Làng rừng được hình thành dựa trên quan điểm “lấy dân làm gốc”. Đây là một trong những chủ trương sáng suốt của Đảng bộ tỉnh Cà Mau đưa dân vào rừng tránh sự khủng bố của địch. Thông qua đó, cán bộ, đảng viên của Đảng bộ tiếp tục tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng cho quần chúng nhân dân để họ không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố lý tưởng và niềm tin chính trị vào sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng miền Nam. Trong bối cảnh cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, chính quyền Sài Gòn tăng cường các biện pháp thực hiện âm mưu kìm kẹp dân, tách dân ra khỏi Đảng, “tát nước bắt cá”, thi hành luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam, “thà giết nhầm hơn bỏ sót”, đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật, khủng bố trắng đối với bất cứ ai…, Đảng đã không bỏ dân, chủ động chuyển hướng vào hoạt động bí mật, hướng dẫn nhân dân vào rừng xây dựng làng kháng chiến kiểu mới để bảo tồn lực lượng, bẻ gãy âm mưu của địch. Sự hình thành Làng rừng thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó cho thấy, Đảng xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Có thể nói, từ Làng rừng dân với Đảng, Đảng với dân đã hòa quyện vào nhau và trở thành mối liên hệ mật thiết không thể tách rời “không dân Đảng biết làm sao, không Đảng, dân biết đàng nào mà đi”10. Hai khái niệm đó hòa quyện và kết nối trên cơ sở kế thừa truyền thống đoàn kết toàn dân tộc và được phát triển trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và đi lên CNXH. Chỉ có cách mạng XHCN mới giải phóng nhân dân thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Bằng nhận thức và niềm tin của mình, nhân dân đã tin tưởng và đi theo Đảng, sát cánh bên Đảng chịu sự lãnh đạo của Đảng để kháng chiến chống lại kẻ thù, giải phóng mình khỏi ách nô dịch của Mỹ và chính quyền tay sai. Xuất phát từ niềm tin mà qua mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến, Đảng luôn luôn được nhân dân tin yêu, đùm bọc, che chở… đó là chủ trương đúng đắn “ý Đảng lòng dân”. Chính căn cứ lòng dân - Làng rừng đã đưa phong trào cách mạng ở Cà Mau vượt qua được những khó khăn, thách thức và đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.
Làng rừng là mô hình xây dựng, củng cố, tập hợp lực lượng, chờ thời cơ phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Do đó, mỗi Làng rừng đều có tổ chức đội du kích, lực lượng vũ trang để chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chiến đấu và quyết tâm chiến đấu chống lại sự khủng bố, đàn áp của địch; là hình thức chiến tranh nhân dân đã có từ cuộc kháng chiến chống Pháp, tiếp tục được phát huy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Làng rừng là khu căn cứ địa độc đáo thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo và tinh thần cách mạng tiến công của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau góp phần bảo toàn, củng cố, xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ và các lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính căn cứ Làng rừng đã tôi luyện, đào tạo hàng nghìn cán bộ, đảng viên cung cấp cho địa phương, tỉnh, khu và miền Tây Nam bộ những cán bộ nòng cốt, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Với những giá trị lịch sử đó, trong công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển hiện nay, Làng rừng là mô hình địa chỉ đỏ cần phục dựng để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và góp phần quảng bá du lịch văn hoá, lịch sử đến với du khách trong và ngoài nước.
Ngày nhận: 5-3-2024 ; ngày thẩm định, đánh giá: 8-4-2025; ngày duyệt đăng: 23-4-2025