Nguyên viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của ĐảngHọc viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
02/02/2024 - 10:16 AM - 925 lượt xem
Tóm tắt: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong hơn 6 năm (1991-1997), trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí Đỗ Mười đã cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo công cuộc đổi mới giành được nhiều kết quả quan trọng, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cho những bước phát triển mới của đất nước.
Từ khóa: Tổng Bí thư Đỗ Mười; hoạt động; cống hiến; 1991-1997.
Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Nhật Bản Tomiichi Murayama
trong chuyến thăm chính thức Nhật Bản từ 18-19/4/1995
Đồng chí Đỗ Mười giữ trọng trách Tổng Bí thư của Đảng trong bối cảnh “công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng”1. Tuy nhiên, tình hình đất nước vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Đại hội VII của Đảng nhận định: “Đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn những mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết”2. Đặc biệt, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó, hàng loạt nhà máy, xí nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động do thiếu vốn và không có nguyên liệu, vật tư cho sản xuất; hàng chục vạn công nhân, người lao động thất nghiệp, đời sống của nhân dân vẫn còn rất khó khăn. Ngoài ra, tác động của chính sách “bao vây cấm vận” và sự tăng cường chống phá của lực lượng thù địch nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”... cùng với nạn tham nhũng, tiêu cực, tệ nạn buôn lậu,... đã gây bất ổn về chính trị - xã hội, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân với Đảng. Trước muôn vàn khó khăn thử thách, trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Tổng Bí thư Đỗ Mười cùng tập thể Bộ Chính trị đã tìm tòi biện pháp, đưa ra những quyết sách, nhằm ổn định chính trị, đưa nền kinh tế đất nước thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện đời sống nhân dân; tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng và mở cửa hội nhập quốc tế.
Những hoạt động, cống hiến quan trọng trong hơn 6 năm (1991-1997) giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng của đồng chí Đỗ Mười góp phần xây dựng chủ trương, chỉ đạo thực hiện trên các lĩnh vực sau:
1. Lĩnh vực phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
Tổng Bí thư Đỗ Mười đã cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết xóa bỏ bao cấp, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Đỗ Mười: "Tất cả các lĩnh vực phải đổi mới một cách đồng bộ, trong đó, xác định: “nhiệm vụ kinh tế là trung tâm và nhiệm vụ xây dựng Đảng giữ vai trò then chốt"3. Để hoàn thành được nhiệm vụ: “Dựa vào dân, phát huy nội lực, huy động sức mạnh của toàn dân tộc để vượt qua khủng hoảng”. Mặt khác, Tổng Bí thư yêu cầu Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương; các nhà máy, doanh nghiệp... nghiên cứu tổ chức sắp xếp lại sản xuất, đổi mới phương thức quản lý theo hướng “phân công, phân cấp”; “mở rộng các hình thức liên kết, liên doanh”; thực hiện “hạch toán kinh tế”; “giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng”4. Đồng chí chỉ rõ: “Phải bổ sung, hoàn chỉnh những chính sách vĩ mô cần thiết”; “thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, bảo hộ mọi hình thức sở hữu hợp pháp và quyền tự do kinh doanh theo pháp luật; ban hành luật đầu tư trong nước và các luật lệ, thể chế cần thiết khác để khuyến khích và hỗ trợ các nỗ lực đầu tư phát triển”5; “Thực hiện các chính sách rộng rãi để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”6; các nguồn vốn huy động được cần ưu tiên cho các ngành, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến, làm hàng tiêu dùng và các mặt háng phục vụ cho xuất khẩu.
Về vấn đề kiềm chế lạm phát, Tổng Bí thư nêu rõ, lạm phát là một tai họa lớn, tác động đến toàn bộ nền kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, làm đảo lộn đời sống mọi tầng lớp nhân dân, làm chậm lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Cho nên chống lạm phát là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, quyết liệt, gian khổ. Đồng chí phân tích, đã là đấu tranh cách mạng thì phải dùng những biện pháp xử lý có tính chất cách mạng. Vấn đề hàng đầu là phải động viên được đông đảo nhân dân tham gia. Đối với Chính phủ, phải chỉ đạo hệ thống ngân hàng thực hiện “chính sách tiền tệ linh hoạt”; thông qua “lãi suất tiền gửi” để khuyến khích nhân dân yên tâm gửi tiền tiết kiệm7; kiên quyết chống bội chi, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa tiêu dùng phục vụ nhân dân, đồng thời tăng cường sản xuất các mặt hàng xuất khẩu để thu ngoại tệ; ổn định kinh tế vĩ mô. Thay mặt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã ký và ban hành nhiều văn kiện của Đảng; kịp thời chỉ đạo phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm; đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán trong nông nghiệp; coi “thực hành tiết kiệm” là một biện pháp chống lạm phát. Đồng chí phê phán, trong khi đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó nhăn, nhưng “hiện nay có một bộ phận trong xã hội tiêu dùng vượt quá trình độ của nền kinh tế”; tình trạng lãng phí tài nguyên quốc gia, đặc biệt là lãng phí trong sử dụng đất đai, tư liệu sản xuất; còn phô trương hình thức tiêu sài hoang phí, tốn kém trong việc tổ chức “hội nghị”; các “Lễ khởi công”, “Lễ khánh thành” các công trình nhà nước... cần phải nghiêm khắc phê phán. Kết quả sau một thời gian thực hiện, đường lối, chủ trương và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đã được Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ngành triển khai đồng bộ tình hình kinh tế- xã hội đã được cải thiện, giải quyết căn bản vấn đề lương thực, không chỉ đủ dùng trong nước, mà còn phục vụ xuất khẩu. Đặc biệt, chỉ số “lạm phát” liên tục giảm qua các năm: từ 92% (năm 1991), chỉ còn 14% (năm 1992) và 7,4% (năm 1997)8. Có thể nói, dưới sự lãnh đạo kiên quyết, táo bạo, trên tinh thần “đổi mới toàn diện” của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, tiêu biểu là các đồng chí trong Bộ Chính trị, đứng đầu là Tổng Bí thư Đỗ Mười. Nhiều công trình trọng điểm của đất nước được xây dựng, hoàn thành trong thời kỳ này như: Công trình Thủy điện Trị An; Chương trình khai phá Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên; chương trình ngọt hóa bán đảo Cà Mau; đường dây tải điện 500 Kv Bắc – Nam; phát triển ngành Dầu khí; xây dựng các Khu chế xuất, Khu công nghiệp; thành lập các Tập đoàn kinh tế nhà nước (các Tổng công ty 91)… góp phần tạo nên những kỳ tích trong công cuộc đổi mới đất nước.
2. Lĩnh vực hoạt động, chỉ đạo lĩnh vực đối ngoại
Tổng Bí thư và Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ quan trọng nhất về đối ngoại là “phá thế bị bao vây cấm vận”, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ; chủ động gia nhập ASEAN, mở rộng quan hệ với các nước trong cộng đồng quốc tế. Về vấn đề “bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc”: Trên cơ sở những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc tại Hội nghị Thành Đô (3-1990), ngày 5-11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã đến thăm, làm việc tại Trung Quốc9. Cuộc hội đàm giữa lãnh đạo cấp cao hai nước Việt - Trung đã đạt được kết quả tốt đẹp; hai bên đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng như: Hiệp định Mậu dịch Trung - Việt; Hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước... Hai bên đã ra Tuyên bố về việc “bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc”. Sau sự kiện này, đồng chí Tổng Bí thư tiếp tục chỉ đạo thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là nhanh chóng thúc đẩy tiến trình “bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ”. Xác định việc “bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ” là một trọng tâm của hoạt động đối ngoại, đồng chí Đỗ Mười đã dành thời gian gặp gỡ với các đoàn Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ Mỹ sang Việt Nam. Trên tinh thần hòa giải, thiện chí, khoan dung, “sẵn sàng làm bạn”; “khép lại quá khứ”, đồng chí trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với đoàn Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ Mỹ do ông Giôn Kery10 dẫn đầu. Trao đổi với Thượng nghị sĩ Giôn Kery về vấn đề “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA), đồng chí Đỗ Mười khẳng định: “Vấn đề MIA, như đã nói với ngài nhiều lần, là vấn đề nhân đạo. Chúng tôi không gắn vấn đề này với vấn đề chính trị. Nhưng thực ra nó là vấn đề chính trị của nước Mỹ. Chúng tôi sẽ hợp tác tốt với các ngài để giải quyết vấn đề MIA..., chúng tôi muốn đất nước được hòa bình, ổn định để tập trung xây dựng lại... chúng ta coi như gác lại quá khứ và hãy nhìn về tương lai để cùng nhau hợp tác và phát triển"11. Đáp lại những hoạt động tích cực, đầy thiện chí của của Đảng, Nhà nước Việt Nam, ngày 11-7- 1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ra tuyên bố “bình thường hóa quan hệ với Việt Nam”. Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và bình thường hóa quan hệ với Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (1995), đã tạo ra bước ngoặt trên mặt trận đối ngoại: ngày 28-7-1995, Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN; ngày 7-11-2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO...). Thắng lợi to lớn trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Đỗ Mười, đã đặt cơ sở cho sự hợp tác toàn diện của Việt Nam với cộng đồng quốc tế; “hoàn toàn phá vỡ thế bị bao vây cấm vận”; đồng thời làm thất bại âm mưu phá hoại, xuyên tạc, kích động thù địch của các thế lực phản động, đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; bước vào thời kỳ ổn định, phát triển.
3. Lĩnh vực xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười khẳng định: “Phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng để bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân về mọi mặt; xây dựng và kiện toàn Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, tạo cơ sở để vừa khai thác được mặt tích cực, vừa hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đưa công cuộc đổi mới tiến lên vững chắc”12. Theo Tổng Bí thư: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phải dựa trên cơ sở xác định mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị; trong quan hệ của cơ chế thị trường”.
Cùng với đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng phải tăng cường công tác tư tưởng: “làm cho toàn thể cán bộ đảng viên thấm nhuần sâu sắc các quan điểm và đường lối đổi mới, thể hiện ở cương lĩnh, chiến lược kinh tế - xã hội và các nghị quyết hội nghị Trung ương. Một mặt, phải đấu tranh tiếp tục khắc phục bệnh giáo điều, bảo thủ, kỳ thị kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường; mặt khác, phải đấu tranh chống những khuynh hướng xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa”13. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; Đồng chí chỉ rõ: “Trong thời gian qua, bên cạnh tệ quan liêu, độc đoán, mất dân chủ, những biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, phát ngôn tuỳ tiện, vi phạm điều lệ Đảng, coi thường pháp luật Nhà nước đã diễn ra ở nhiều đảng bộ, nhiều cán bộ đảng viên”. Vì vậy: “Phải thiết lập trật tự kỷ cương trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết từ trong Đảng, vì bản thân Đảng có giữ được kỷ luật, kỷ cương thì mới có thể lãnh đạo việc lập lại trật tự, kỷ cương ngoài xã hội”; “Mọi hoạt động vô tổ chức, vô kỷ luật, cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất tư tưởng và tổ chức của Đảng... đều phải thi hành kỷ luật nghiêm khắc”14.
Về công tác cán bộ: Theo đồng chí: “Vấn đề cán bộ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là khâu then chốt. Phải đào tạo đồng bộ đội ngũ cán bộ các ngành, các cấp, các lĩnh vực có đầy đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm nhiệm vụ to lớn và phức tạp hiện nay”15. Đồng chí đưa ra những yêu cầu cụ thể về những tiêu chí, phẩm chất và năng lực cán bộ: “Cán bộ lãnh đạo phải có đạo đức cách mạng trong sáng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gần gũi nhân dân, có phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể, trung thực, thẳng thắn, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm, quy tụ và đoàn kết được mọi người”. Để làm tốt công tác cán bộ: “Cần quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, khắc phục các căn bệnh quan liêu, độc đoán, gia trưởng, vụ lợi, tham nhũng, cục bộ, địa phương chủ nghĩa”16.
Về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng: Tông Bí thư chỉ đạo: “Phải chăm lo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, xác định rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của đảng bộ cơ sở, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, khắc phục tình trạng thụ động, trì trệ của nhiều cơ sở đảng hiện nay”17.
Về tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân, Tổng Bí thư nêu rõ: “Xuất hiện nguy cơ lớn là đảng cầm quyền bị quan liêu hoá, từ việc đề ra chủ trương, chính sách không hợp quy luật, không hợp lòng dân, phương pháp công tác xa rời quần chúng đến tình trạng tha hoá trong lối sống của một bộ phận cán bộ. Toàn Đảng ta phải đấu tranh loại trừ nguy cơ đó, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng, củng cố, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân”18. Tổng Bí thư chỉ đạo, cấp ủy và chính quyền các cấp: “Mở rộng tiếp xúc, đối thoại giữa cán bộ lãnh đạo, đại diện cơ quan nhà nước với nhân dân. Đơn thư khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị của dân phải được cơ quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời nhanh chóng. Phải chỉnh đốn các cơ quan nhà nước, xử lý nghiêm minh những cán bộ, nhân viên lợi dụng chức quyền vơ vét, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp nhân dân”19.
Về công tác kiểm tra của Đảng: “Đảng phải tăng cường kiểm tra... bảo đảm cho đường lối, quan điểm của Đảng được quán triệt đúng đắn, kịp thời phát hiện và uốn nắn lệch lạc. Đồng thời, qua kiểm tra để thấy rõ các nghị quyết của Đảng có phù hợp với cuộc sống thực tế hay không, từ đó điều chỉnh và hoàn thiện chủ trương, chính sách.
Trên tinh thần thẳng thắn, đồng chí chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng: “một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu vững vàng về chính trị; giảm sút ý chí và phẩm chất cách mạng, đặc biệt phạm vào tệ tham nhũng. Công tác cán bộ vẫn trì trệ kéo dài, nhất là chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo một cách chủ động bảo đảm tính liên tục và kế thừa. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm ở nhiều nơi”20. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém là do “sự lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, từ trung ương đến cấp uỷ các cấp, chưa được quan tâm đầy đủ. Việc tổng kết kinh nghiệm xây dựng đảng chưa được coi trọng. Chậm làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng trong giai đoạn mới, nhất là từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, dân chủ hoá đời sống xã hội”21.
4. Lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Đỗ Mười đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng Hiến pháp (Hiến pháp 1992, có sửa đổi) làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật22. Tuy nhiên, theo đồng chí việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn nhiều lúng túng, hạn chế. Quan niệm chưa thật rõ về sự thống nhất quyền lực nhà nước, về sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong thực tế còn có sự chồng chéo về trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan đó. Vai trò, vị thế của Tòa án còn yếu, chưa tương xứng với chức năng bảo vệ công lý. Cải cách bộ máy nhà nước, đặc biệt là cải cách hành chính, cải cách tư pháp thực hiện còn chậm. Bộ máy hành chính còn nhiều bất hợp lý về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ. Hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước còn yếu và chưa thông suốt. Tính chủ động, ý thức trách nhiệm của từng địa phương chưa được phát huy đầy đủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước chưa được thực hiện nhất quán. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao; kỷ cương phép nước còn bị xem nhẹ ở nhiều nơi; tệ cửa quyền, quan liêu, lãng phí chưa được đẩy lùi”23.
Đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo: Phải cương quyết và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, tạo lập cho được trật tự xã hội, trật tự quản lý nhà nước trong các đơn vị và cơ quan, trật tự quản lý đối với mọi thành phần kinh tế và mọi thành viên trong xã hội, tạo nên môi trường sống lành mạnh, an toàn, làm cho mọi người an cư lạc nghiệp, hăng hái công tác, phát minh, sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải quyết tốt các mối quan hệ trong hành lang pháp luật. Nói tóm lại, Nhà nước phải quản lý toàn bộ đời sống xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật. Đồng chí nhấn mạnh, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó cải cách bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải khẩn trương, tích cực, song phải thận trọng, có bước đi vững chắc bảo đảm thành công của sự nghiệp đổi mới, nhằm đạt bằng được yêu cầu: càng đẩy mạnh đổi mới thì đất nước càng ổn định và phát triển24.
5. Lĩnh vực văn hóa - xã hội
Để công cuộc đổi mới giành thắng lợi, phải có tư duy sáng tạo, biết khai thác, phát huy thế mạnh của đất nước; loại bỏ những trở lực về tư duy cũ kỹ, lạc hậu và phong cách lãnh đạo quan liêu, đem lại chất lượng, hiệu quả cho công cuộc đổi mới. Đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo, phải phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc; phải nhân rộng những tấm gương “người tốt việc tốt”; kiên quyết phòng, chống những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch. Đồng chí khẳng định, nhân tố quyết định thành công trong xây dựng xã hội mới, là khối đại đoàn kết dân tộc. Bởi vì: “Khối đại đoàn kết dân tộc luôn luôn là sức mạnh, là nhân tố quyết định thắng lợi ở mỗi thời kỳ lịch sử”. Để củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, phải chăm lo đời sống nhân dân. Phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, chú trọng giúp đỡ, nâng cao đời sống của thương binh, các gia đình liệt sĩ. Đồng chí thống nhất với Chủ tịch nước, tổ chức phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”25 cho những người mẹ đã có chồng con hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Tổng Bí thư cũng nhìn thấy những hạn chế, bất cập về lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực văn hóa - xã hội; đặc biệt là sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đã và đang làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đồng chí chỉ đạo, phải rà soát và bãi bỏ ngay các thủ tục gây phiền hà cho dân; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và bài trừ tham nhũng, lãng phí của công; xây dựng trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước. Nghiên cứu tình trạng khiếu kiện đông người và kéo dài xảy ra ở một số địa phương26. Đồng chí Đỗ Mười khẳng định, nguyên nhân không phải do nhân dân cố tình chống đối lại chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, mà cơ bản là do sự yếu kém trong quản lý vĩ mô của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tình trạng phân hóa giàu nghèo quá nhanh, việc giải quyết việc làm và những vấn đề xã hội, nhất là vấn nạn tham nhũng làm chưa tốt; vấn đề thực thi dân chủ còn hạn chế. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, đồng chí đề xuất với Thường vụ Bộ Chính trị và xin ý kiến của các đồng chí Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cho triển khai xây dựng “Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-CT/TW về Quy chế dân chủ ở cơ sở27. Việc xây dựng và ban hành “Quy chế dân chủ ở cơ sở” không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc “luật hóa, lệ hóa”, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; mà còn làm lành mạnh hóa xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
6. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo
Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: "Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn dân"; do đó Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, các tổ chức xã hội phải chăm lo đến sự nghiệp giáo dục; đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, mở rộng đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả, làm cho giáo dục thực sự là của dân, do dân và vì dân28. Tổng Bí thư nhắc nhở, cần quan tâm đầy đủ hơn tới xây dựng đội ngũ giáo viên; Chăm lo đời sống của thầy, cô giáo; Đặc biệt chú trọng bồi dưỡng giáo viên về đạo đức, nêu tấm gương sáng cho học sinh và cho xã hội, hết lòng vì sự nghiệp “trồng người” với lương tâm và trách nhiệm cao, trở thành những người thầy mẫu mực của chế độ mới, của dân tộc Việt Nam anh hùng, được nhân dân yêu mến và kính trọng.
7. Lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Trên cương vị Tổng Bí thư - Bí thư Quân ủy Trung ương, đồng chí thường xuyên quan tâm, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh. Đồng chí nêu rõ, để giữ vững chủ quyền quốc gia, giữ vững hòa bình, đảm bảo an ninh đất nước và cuộc sống bình yên của nhân dân, phải tăng cường sức mạnh của các lực lượng vũ trang: Phải coi củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước... trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân, là những lực lượng nòng cốt”; “Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân”; “phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang... Chăm lo đời sống cán bộ và chiến sĩ, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; củng cố và tăng cường quan hệ quân dân”29.
Tháng 12-1997, tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII), đồng chí Đỗ Mười đã xin không tiếp tục tham gia Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII. Trung ương đã chấp thuận ý nguyện của đồng chí và đã suy tôn đồng chí làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong 6 năm (1991-1997) giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Đỗ Mười, với bản lĩnh kiên định, phong cách làm việc sâu sát, giàu trí tuệ, sáng tạo và hiệu quả; luôn gắn lý luận với thực tiễn, “nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều”; đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, đồng chỉ Đỗ Mười là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, một người cộng sản mẫu mực; một nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đảng đã khẳng định: “Trên cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Quân uỷ Trung ương, bằng những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí Đỗ Mười đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn nêu cao tinh thần kiên định, vững vàng, đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua nhiều thách thức, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó”30.
Ngày nhận: 9-6- 2023; ngày thẩm định: 18-12-2023; ngày duyệt đăng: 1-2-2024
1, 2, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, H, 1991, tr. 49, 50.
3, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 52, tr. 82, 71, 85, 87, 87, 88, 89, 77, 79, 84, 84, 88.
4, 5, 6. Đỗ Mười: Những bài nói và viết chọn lọc, Nxb CTQG, H, 2007, T. 2, tr.411 – 412, 84, 86.
7. Đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo cho làm thí điểm ở Hải Phòng, sau đó nhân rộng ra cả nước.
8. Theo: Nguyễn Tấn Dũng: “Đồng chí Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo đổi mới sáng tạo”. In trong sách: Đồng chí Đỗ Mười - Dấu ấn qua những chặng đường lịch sử. Nxb CTQG, H, 2012".
9. Đoàn đại biểu Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười dẫn đầu đã sang thăm Trung Quốc từ ngày 5-11-1991 đến ngày10-11-1991.
10. Giôn Kery Thượng nghị sĩ của bang Massachusetts, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ. Ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (2013- 2017) dưới thời Tổng thống Barack Obama.
11. Theo sách: "Đồng chí Đỗ Mười - Dấu ấn qua những chặng đường lịch sử", Nxb CTQG, H, 2012, tr. 276.
22. Ngày 15-4-1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa VIII thông qua, đánh dấu mốc lịch sử về công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
23, 24. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 69, Nxb.CTQG.H.2006, tr.485-486, 485-486.
25, 30. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đọc tại Lễ truy điệu dồng chí Đỗ Mười, (ngày 7-10-2018).
26. Các cuộc khiếu kiện của nhân dân Quỳnh Côi (Thái Bình); nhân dân Kim Bảng (Hà Nam)...vv.
27. Quy chế dân chủ ở cơ sở quy định rõ: Việc gì chính quyền cũng phải báo cáo rộng rãi với dân; Việc gì chính quyền cũng cần bàn với dân trước khi ra quyết định; Việc gì cũng nhất thiết phải do dân quyết định.
28. Đỗ Mười: “Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. (Bài phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa VII (ngày 4-1-1993).