Tóm tắt: Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã diễn ra gần 40 năm. Lịch sử của dân tộc, của Đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử của con người, những con người tiên phong, những người biết lo cho Đảng, cho dân, cho sự hồi sinh và phát triển bền vững đất nước. Đồng chí Võ Văn Kiệt là một nhân vật lịch sử có bản lĩnh chính trị, một con người của đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đồng chí Võ Văn Kiệt là lớp người tiên phong thực hiện một cách tích cực nhất, hiệu quả nhất với hoài bão cháy bỏng đưa đất nước phát triển bền vững sánh vai với các cường quốc năm châu.

1. Con người của thực tế đầy biến động
Cuộc đời của đồng chí Võ Văn Kiệt (1922-2008) gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc. Nói đến đồng chí Võ Văn Kiệt là nói đến một con người 3 dám: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, Tổ quốc.
Cuộc sống trong thực tế cách mạng không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Thắng lợi ngày 30-4-1975 của dân tộc là sự kết thúc giai đoạn này và mở đầu giai đoạn khác. Đó là sự kết thúc của quá trình đấu tranh bảo vệ và giải phóng dân tộc lâu dài với thời gian lên đến hàng chục năm. Đó là sự mở đầu “cuộc chiến đấu khổng lồ” chống lại những gì hư hỏng, cũ kỹ để tạo ra những giá trị tốt tươi như trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết, tức là xây dựng một xã hội mới, xã hội XHCN trên phạm vi cả nước, một xã hội mà chưa có tiền lệ, một xã hội mình đầy thương tích bây giờ phải mang thêm thương tích mới của biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, đặc biệt là vết thương lòng không thể một sớm một chiều mà hàn gắn được. 
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã sống cùng, sống trong những biến cố sôi động và đầy khó khăn nhất của đất nước Việt Nam: (1) Điều đầu tiên là sự hồi sinh thật quý giá của dân tộc Việt Nam, một dân tộc vốn không lấy gì làm may mắn trên con đường tồn tại và phát triển do tác động tiêu cực của hai yếu tố thiên tai và giặc giã ngay từ buổi đầu dựng nước thời Hùng Vương cho đến mãi mai sau. Nhân dân Việt Nam đã buộc phải cầm súng đứng lên bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự tiến bộ cho nhân loại. (2) Việt Nam hồi sinh trong một hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn chồng lên khó khăn, nhất là phân phối lưu thông, giá cả thị trường, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vốn của mô hình cũ phù hợp với điều kiện của chiến tranh nay trong điều kiện hòa bình không còn phù hợp, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng bắt đầu từ những năm sau 1975. (3) Quan hệ quốc tế của Việt Nam bị “trục trặc” do nhiều vấn đề, trong đó đặc biệt nhất là giải quyết vấn đề Campuchia. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng nằm trong hoàn cảnh đó trong lúc nhận thức của các nước, cả nước lớn và cả nước nhỏ, không phải lúc nào cũng đúng. (4) Cú sốc lớn nhất là sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới. Mô hình CNXH Liên Xô - một thời được coi và xứng đáng đúng như thế, là thành trì của hệ thống XHCN, bị tan vỡ. Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng của V.I.Lênin, Đảng với hơn 20 triệu đảng viên, Đảng đã thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của cả phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chống lại chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa cộng sản bị sụp đổ. (5) Đồng chí Võ Văn Kiệt sống và hoạt động trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước bị khủng hoảng trầm trọng, lạm phát lên tới ba con số (hơn 700%), đời sống của nhân dân, đặc biệt của những người trong bộ máy của hệ thống chính trị, bị khó khăn lớn. (6) Và cuối cùng, đồng chí Võ Văn Kiệt sống trong thời kỳ chuyển đổi tư duy ở chính nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam với sự chuyển từ cơ chế cũ tạo điều kiện cho sự nhú mầm của những tư duy mới và sự giằng co giữa chúng. Nói đến tư duy là nói đến con người, mà con người sau chiến tranh nhiều ít đều mang hơi hướng của bệnh công thần, cùng lúc đó xuất hiện những con người hăm hở lao vào cuộc đổi mới từng phần tiến lên đổi mới toàn diện, trong đó có đồng chí Võ Văn Kiệt. 
 
2. Trăn trở giải quyết những vấn đề cấp bách
Điều khó nhất của con người ta là buộc phải kìm lại những vấn đề bức bách trong cuộc sống, có những vấn đề muốn giải quyết mà không thể làm, nhất là ý kiến kìm ngăn lại là ý kiến của cấp trên. Trong lịch sử quan hệ trong Đảng cũng như trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã từng xảy ra những tình huống như vậy. Đồng chí Võ Văn Kiệt nhiều lần bị “vấp” phải tình trạng này ở trong Đảng. Đối với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, ít nhất có hai lần: lần sau Hiệp định Genève năm 1954 về Đông Dương và lần sau Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973). 
Đối với lần 1, Mỹ và bè lũ tay sai luôn luôn không muốn một nước Việt Nam thống nhất, cho nên chúng đã đàn áp khốc liệt các lực lượng yêu nước-cách mạng ở miền Nam, trong khi chủ trương của Đảng muốn thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình theo những quy định của Hiệp định Genève, kể cả khi đã quá hạn 2 năm, từ tháng 7-1956 trở đi. Máu của đồng bào, chiến sĩ cách mạng vẫn bị đổ xuống, nhưng chủ trương của Trung ương vẫn là “chưa cho đánh”. Con đường duy nhất lúc này của cách mạng ở miền Nam Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng, vùng lên với lực lượng vũ trang kết hợp lực lượng chính trị để đánh đổ chế độ Mỹ-Diệm, chứ không phải là “giữ gìn lực lượng” chờ thời cơ - điều này vô hình trung tạo hệ lụy làm cho cách mạng bị tổn thất lớn. Súng chôn dưới đất phải được đào lên. Các chiến sĩ cách mạng phải tự vùng lên chiến đấu chứ không chịu nằm lâu mãi dưới hầm bí mật! Đó là yêu cầu của cuộc sống cách mạng những năm từ 1956 trở đi. Là một trong những người lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã trăn trở ngày đêm góp phần giải tỏa bức bách đó bằng cách kiên trì thuyết phục những người có trách nhiệm, thuyết phục cấp trên “cho đánh”. NQTƯ 15 khóa II năm 1959 và sau đó là “đồng khởi” chuyển cách mạng miền Nam sang giai đoạn mới có công lao đóng góp to lớn của đồng chí Võ Văn Kiệt1. 
Đối với lần 2, cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ở Quân khu 9, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, hình thành vùng “da báo” mà chính quyền Sài Gòn luôn luôn muốn thay đổi “da báo” có lợi cho chúng, tức là ra sức cướp đất của vùng đã giải phóng của ta bằng chính sách “tràn ngập lãnh thổ”. Đồng chí Võ Văn Kiệt là một người lãnh đạo trong số những người đi đầu tiến công địch, giữ vững vùng giải phóng, xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng luôn luôn phải ở thế tiến công2. Bài học thời kỳ 1956-1960 còn tươi mới. Chỉ có tiến công địch thì mới giành được thắng lợi. Đó là cơ sở cho việc ra đời Nghị quyết HNTƯ 21 khóa III; từ đó đưa cách mạng ở miền Nam tiến thêm những bước mới, tạo tình thế và thời cơ mở ra trận Phước Long đi đến sự hạ quyết tâm của Trung ương, của Bộ Chính trị hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong hai năm 1975-1976. Và, khi thời cơ đến thì giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975 với thế tiến công ở Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Không có tư duy đổi mới, tư duy tiến công cách mạng những năm ngay sau Hiệp định Paris thì chắc chắn không thể nào có được chiến thắng 30-4-1975.
 
3. Dũng cảm đi tiên phong phá bỏ cơ chế quản lý không phù hợp
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV của Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cương vị Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông đã thể hiện tư duy đổi mới sắc sảo một con người năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Điển hình nhất cho tư tưởng đổi mới của đồng chí Võ Văn Kiệt thể hiện rõ nhất ở hai việc: giải quyết vấn đề lương thực (gạo) và “xé rào” cơ chế.
Sau ngày 30-4-1975, lương thực của Thành phố Hồ Chí Minh không đủ ăn, phải dùng tới hàng vạn tấn khoai lang, khoai mì, bo bo thay cho gạo. Đồng chí Võ Văn Kiệt thẳng thắn và dứt khoát tuyên bố: “Không để một người dân nào chết đói”. 
Nói thì dễ nhưng làm mới khó. Với bản lĩnh và tư duy đổi mới, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đi tới quyết định “xé rào”. Đương nhiên là có sự bàn bạc tập thể. Nhưng tập thể gì thì tập thể, phải có người khởi xướng và chịu trách nhiệm chính. Đồng chí Võ Văn Kiệt là người như thế, đi tiên phong và chịu trách nhiệm không những trước Đảng mà còn là người có trách nhiệm với nhân dân. Sự kiện đồng chí Võ Văn Kiệt với sự lo gạo của bà Ba Thi là thí dụ điển hình nhất của sự xé rào, trăn trở và đầy trách nhiệm đúng với tên gọi thân mật Nam Bộ “Sáu Dân” của đồng chí Võ Văn Kiệt. Tính cách của ông Sáu Dân là quyết liệt, quyết liệt và quyết liệt, nhưng đầy tình nghĩa khi có dự tính nếu xé rào để giải quyết vấn đề gạo cho dân mà bà Ba Thi bị đi tù thì đồng chí Võ Văn Kiệt nói rằng ông sẽ mang cơm nuôi bà Ba Thi trong tù. Cơ chế được sinh ra từ đâu? Là do từ con người, là do từ Đảng và Nhà nước, nhưng để phá nó không dễ, nó cần tới 3 điều: 1) Con người có bản lĩnh phá tan nó; 2) Con người ấy phải biết cách phá, biết chọn những người đi phá cùng mình; 3) Con người biết kiên nhẫn giải thích và biết chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân, không tự tư tự lợi.  Đó chính là con người đồng chí Võ Văn Kiệt. Một cơ chế quản lý phân phối thị trường hoàn toàn không phù hợp trong thời bình mà vẫn được giữ. Do vậy, chỉ có những người có bộ óc thực tế, gần dân, sát dân mới đưa đến những quyết định lịch sử “xé rào”, xé toang những cái cũ kỹ, lạc hậu để không những nhân dân, mà còn Trung ương Đảng, trong đó có những đồng chí lãnh đạo chủ chốt nhất của Đảng, tổng kết lại thành đường lối đổi mới.
 
4. Đồng chí Võ Văn Kiệt - con người của những công trình lớn góp phần xoay chuyển cục diện kinh tế-xã hội 
Đồng chí Võ Văn Kiệt  là một trong những “tổng công trình sư” của nhiều dự án lớn, quan trọng trong thời kỳ đổi mới đất nước như: công trình điện Trị An, Thác Mơ, Yaly, Phú Mỹ; đường dây tải điện 500 KV Bắc-Nam; các công trình giao thông như: đường Hồ Chí Minh, cầu Mỹ Thuận, nhà máy lọc dầu Dung Quất… Gọi là “một trong những người”, nhưng kỳ thực có những công trình mà không có sự quyết định táo bạo của đồng chí thì không thành công. Bản lĩnh và tấm lòng chân thành là đức tính quý báu của đồng chí Võ Văn Kiệt làm nên những quyết định đổi mới như thế.
Đồng chí Võ Văn Kiệt có vị trí để đưa ra những quyết định, đó là vị trí Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng giữ trọng trách Thủ tướng. Nhưng, đừng tưởng rằng, khi đã có vị trí đó rồi thì muốn làm gì cũng được. Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, đó là một nguyên tắc trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo V.I.Lênin. Đó là nhìn đơn thuần về mặt lý luận/lý thuyết. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, nhưng chân lý lại có lý thuyết hình thành của nó. Đồng chí Võ Văn Kiệt là một điển hình giữa sự kết hợp lý luận với thực tế, chịu lắng nghe, tự tổng kết để tìm chân lý, mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: chân lý là những gì có lợi cho Đảng, cho Tổ quốc, cho cách mạng, cho dân. Với bản lĩnh của đổi mới sáng tạo, bản lĩnh của người lãnh đạo, đồng chí Võ Văn Kiệt đã quyết định làm đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam. Thực tế, đã chứng minh đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam có hiệu quả tốt đối với việc phát triển kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân.
 
5. Quý hóa một tấm lòng của người trăn trở cho đổi mới
Một con người như đồng chí Võ Văn Kiệt không bao giờ ngồi yên khi thời cuộc cần. Do đó, địa bàn đồng bằng sông Cửu Long luôn in đậm dấu chân của đồng chí. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã đi khảo sát vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên để đề ra quyết sách “sống chung với lũ” nổi tiếng, vừa hợp với thiên nhiên vừa hợp với lòng người. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa thóc của cả nước, có vai trò rất quan trọng cho chiến lược an ninh lương thực, do đó đồng chí Võ Văn Kiệt rất quan tâm đế việc sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản ở đây, đặc biệt là vấn đề lập Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long để khai sinh một định chế tài chính mới mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng với mục tiêu trước mắt khai thác, huy động, tập trung các nguồn vốn để đầu tư phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần ổn định nhà ở cho người dân, nhất là người dân ở vùng lũ lụt; góp phần chuyển dịch cơ cấu, hỗ trợ cho sự phát triển toàn bộ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. 
Đến cuối đời, đồng chí Võ Văn Kiệt vẫn còn đau đáu nỗi lòng đối với nhân dân trong việc giải quyết vấn đề ngập lụt, nước biển dâng của Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Nam Bộ. Đồng chí Võ Văn Kiệt nghiên cứu trường hợp của Hà Lan với hệ thống đê biển để tìm kiếm kinh nghiệm cho Việt Nam. 
Chỉ có cái chết mới làm đồng chí Võ Văn Kiệt ngưng nghỉ việc giúp dân, giúp nước. “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Nguyễn Du). Con người “tinh anh”, bộ óc vĩ đại của con người đổi mới mang tên Võ Văn Kiệt - Sáu Dân sống mãi với đồng bào, đồng chí, với Đảng, với dân, với nước.
 
 
1. Đồng chí Võ Văn Kiệt là Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Bộ, từ tháng 10-1954
2. Thời điểm nay, đồng chí Võ Văn Kiệt giữ chức Bí thư Khu ủy Khu IX.