Tóm tắt: Đồng chí Đào Duy Tùng (1924-1998) là người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho Đảng, cho Tổ quốc, cho nhân dân Việt Nam. Một trong những cống hiến xuất sắc nhất của đồng chí là cùng Trung ương Đảng và cộng sự xây dựng, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước. Rồi đây, Đảng sẽ tổng kết 40 năm đổi mới, lúc ấy những cống hiến của đồng chí Đào Duy Tùng sẽ được nhắc lại và được tưởng nhớ với lòng ngưỡng mộ, lòng biết ơn của bao người, nhất là những người còn trẻ đầy tâm huyết đối với sự phát triển của nước nhà.
Từ khóa: Đồng chí Đào Duy Tùng; đường lối đổi mới; Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Ai là tác giả của công cuộc đổi mới của Việt Nam?
Trả lời cho câu hỏi trên, có thể thấy rằng công cuộc đổi mới của Việt Nam xuất phát từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm tháng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam áp dụng cơ chế phù hợp với điều kiện thực tiễn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc và đã phát huy tác dụng. Với mô hình bao cấp, kế hoạch hóa tập trung, mô hình này đã gặp mảnh đất tốt trong chiến tranh; nhưng sau ngày thống nhất đất nước, cơ chế đó không còn phù hợp nữa. Một trong những bài học trong lịch sử hoạt động của Đảng là khi có tình hình mới thì phải có chủ trương mới. Ra khỏi chiến tranh mà vẫn áp dụng cơ chế của thời chiến, cộng với một số hạn chế khác trong lãnh đạo, cho nên đất nước gặp muôn vàn khó khăn, biểu hiện hệ quả của nó rõ nhất là xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân sút giảm nghiêm trọng. Tình trạng thiếu đói đã len vào tới từng gia đình, từng người lao động. Trước tình hình đó, một số địa phương đã “phá rào” (theo cách gọi của một số nhà nghiên cứu). Điều này đã diễn ra ở hầu khắp các địa phương, nhất là ở Đồ Sơn (Hải Phòng), Vĩnh Phú, Long An và ở nhiều nơi khác.
Ở Trung ương, sau năm 1975, đứng trước tình hình đó, có hai luồng quan điểm: Một là, phải thuận theo ý kiến của cơ sở, tán thành sự “phá rào” của nhân dân để làm cho sản xuất bung ra, chí ít để cứu đói, sau nữa là kìm được lạm phát, dần dần cân đối được ngân sách,... Hai là, vẫn níu kéo cơ chế cũ. Tóm lại, là diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ, tức là tư duy cũ, còn khá mạnh. Còn cái mới bắt đầu nhú lên nhưng chưa đủ mạnh. Nhưng cái mới đáng trở thành xu thế phát triển mới. Trong hệ thống XHCN thế giới, đã có chuyển đổi, nhưng mỗi nước lại có sự chuyển đổi khác nhau. Trung Quốc tiến hành cải cách từ năm 1978. Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu rục rịch cải tổ để khắc phục tình trạng khủng hoảng âm ỉ từ nhiều năm trước, đến những năm 80 thế kỷ XX càng trầm trọng hơn. Do vậy, lúc này ở Việt Nam, nhiều vị lãnh đạo chủ chốt của Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh (thay đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10-7-1986) đã chuyển biến về tư duy, trở thành những người giương cao ngọn cờ đổi mới, trên cơ sở tổng kết đổi mới từ các cơ sở để chính thức đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước bằng những quyết định tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Nói “chính thức” là vì trước khi diễn ra Đại hội VI, Việt Nam đã có đổi mới từng phần, từng chặng, cũng đã diễn ra sự “cọ xát” giữa hai quan điểm: đổi mới hay vẫn giữ như cũ.
Đến nay, thời gian đã lùi xa khoảng nửa thế kỷ, càng chứng minh rằng, đổi mới của Việt Nam là từ dưới lên, tức là từ cơ sở, sau đó Trung ương tổng kết thành đường lối đổi mới. Và, cũng chính là Đảng, tập trung là Trung ương, đã lãnh đạo toàn dân tiến hành thực hiện đường lối đổi mới. Điều này khác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cải tổ từ trên xuống. Vậy là, tác giả đường lối đổi mới là nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam. Lâu nay, các sách vẫn hay viết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Viết như thế là đúng, nhất là ở vế “lãnh đạo”, nhưng chưa đủ; chính xác và đầy đủ hơn là thêm yếu tố nhân dân, vì nhân dân là đồng tác giả của đổi mới.
2. Đồng chí Đào Duy Tùng đóng góp như thế nào trong tình hình đó?
Có 3 điều cần nhấn mạnh khi đề cập vấn đề này:
Một là, đồng chí Đào Duy Tùng là một cán bộ lãnh đạo cao cấp, Ủy viên Trung ương Đảng từ nhiệm kỳ khóa IV, và là Ủy viên Bộ Chính trị các nhiệm kỳ VI, VII. Trước khi Việt Nam chính thức có đường lối đổi mới, tức là trước trước Đại hội VI (12-1986), đồng chí Đào Duy Tùng đã có tư duy đổi mới. Bằng chứng là đồng chí là người ủng hộ ngay từ đầu những người đổi mới, tức là ủng hộ tư tưởng đổi mới đất nước, ủng hộ sự ra đời của “Khoán 100”. “Khoán 100” là cách nói gọn của Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13-1-1981 do Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành về “cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp”. Đây chính là bước đột phá đầu tiên về đổi mới cơ chế quản lý, kế hoạch hóa và hạch toán kinh tế trong nông nghiệp góp phần tích cực, quan trọng dẫn đến tư duy đổi mới của Đại hội VI, sau đó là tạo ra cơ sở để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 “về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (thường được gọi tắt là “Khoán 10”) cho phép hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài. Đồng chí Đào Duy Tùng là một con người có đức tính cẩn trọng, chín chắn trong suy nghĩ và hành xử, biểu hiện của bản lĩnh chính trị. Đồng chí lặng lẽ đi cùng với quá trình đổi mới sáng tạo và trở thành một trong những người thúc đẩy công cuộc đổi mới. Đồng chí Hà Đăng là người gần gũi với đồng chí Đào Duy Tùng thổ lộ trong một số bài viết của mình khi đề cập đồng chí Đào Duy Tùng rằng, nếu bảo thủ là níu giữ những gì đã lạc hậu, đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của cách mạng, thì rõ ràng đồng chí Đào Duy Tùng không dính dáng gì đến cái danh xưng ấy.
Hai là, với cương vị Ủy viên Bộ Chính trị và đã có thời gian là Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Đào Duy Tùng là người thúc đẩy việc hoàn thiện đường lối đổi mới. Chúng ta biết rằng, đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra với những ngọn cờ sáng giá là các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh... Nhưng, đường lối đó mới chỉ là bước đầu. Đầu xuôi thì đuôi lọt. Nhưng, để “đuôi lọt” phải có người chủ chốt khởi xướng.
Ba là, đồng chí Đào Duy Tùng có khả năng, cũng như có kỹ năng thực hiện sứ mệnh là một trong những người xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng. Đồng chí Đào Duy Tùng là nhà lý luận, là nhà tư tưởng có uy tín của Đảng. Với những khả năng và phẩm chất ấy và với vị trí công tác của mình là Ủy viên Bộ Chính trị và là Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, là thành viên Tổ Biên tập văn kiện nhiều Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đồng chí Đào Duy Tùng đã có những đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành và hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới trên những vấn đề chủ yếu nhất sau đây:
Thứ nhất, đối với việc xây dựng Văn kiện Đại hội VI của Đảng (12-1986), đồng chí Đào Duy Tùng là thành viên của Tổ soạn thảo Báo cáo chính trị, đã có những sáng kiến về xây dựng “ba quan điểm về kinh tế” (bố trí cơ cấu kinh tế; cải tạo XHCN; cơ chế quản lý). Đồng thời, đồng chí Đào Duy Tùng đã cùng Tổ biên tập đề xuất Tiểu ban Văn kiện trình Bộ Chính trị thảo luận và có đóng góp quan trọng vào việc biên tập “Kết luận về ba quan điểm kinh tế” của Bộ Chính trị, góp phần mở bước đột phá tư duy, sửa chữa Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, thay cho bản dự thảo cũ. Điều đáng lưu ý là, trên mặt trận tư tưởng, đồng chí Đào Duy Tùng đã có thâm niên lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và đóng góp của đồng chí thật to lớn đối với lĩnh vực này của Đảng. Đồng chí Đào Duy Tùng đã giữ cương vị Phó Vụ trưởng, Vụ trưởng Vụ Huấn học Ban Tuyên huấn Trung ương, Phó Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản), Viện trưởng Viện Mác-Lênin và Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Đồng chí Đào Duy Tùng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong 4 khóa liền (Đại hội IV, V, VI và VII), trong đó 2 khóa được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.
Thứ hai, từ năm 1991, sau Đại hội VII (1991) của Đảng, đã diễn ra những mốc quan trọng trong quá trình hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó đặc biệt là Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII diễn ra vào năm 19941. Đồng chí Đào Duy Tùng là một trong những người đóng góp tích cực nhất đưa ra nhận định về 4 nguy cơ và được Hội nghị đưa vào Nghị quyết. Đó là: 1) Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; 2) Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; 3) Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu; 4) Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch2.
Đáng chú ý và đáng được ghi nhận là về xác định 4 nguy cơ như trên đã được thực tế chứng minh là hoàn toàn chính xác. Ngay cả văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng vẫn khẳng định việc nêu ra 4 nguy cơ đó vẫn còn có giá trị thực tế.
Thứ ba, đối với Đại hội VIII (1996) của Đảng, đồng chí Đào Duy Tùng tham gia chủ chốt vào việc chuẩn bị văn kiện cho Đại hội, trong đó tập trung rõ nhất là đóng góp trong việc đánh giá 10 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới (1986 -1996). Những đánh giá sau đây là rất quan trọng và bắt mạch đúng thực trạng cũng như xu thế phát triển của Việt Nam: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Trong Văn kiện Đại hội còn ghi rõ rằng, về tổng thể, việc hoạch định đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng XHCN, tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác3. Văn kiện của Đại hội là những nội dung phản ánh trí tuệ của tập thể toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, song đồng chí Đào Duy Tùng đã ghi dấu ấn đóng góp rất quan trọng vào trong đó.
3. Phong cách làm việc của đồng chí Đào Duy Tùng trong đổi mới tư duy xây dựng đường lối đổi mới của Đảng
Phong cách làm việc của đồng chí Đào Duy Tùng là phong cách giản dị, dễ gần, trung thực, khiêm tốn, đổi mới có nguyên tắc. Đó trước hết là biết lắng nghe, biết tôn trọng những người đối thoại với mình, khuyến khích thảo luận để tìm ra chân lý, dù người đó là ai. Đồng chí Đào Duy Tùng coi việc thảo luận, đưa ra những ý kiến còn khác nhau để bàn bạc một cách dân chủ, không định kiến là việc nên làm và đó là việc bình thường, là sự bảo đảm dân chủ trong sinh hoạt Đảng ở các cấp. Sống có chuẩn mực, kiên trì theo nguyên tắc của Đảng, gương mẫu trong cuộc sống và trong công tác, đồng chí Đào Duy Tùng còn nhắc nhở những người cùng công tác phải cảnh giác trước các thế lực xấu, lợi dụng dân chủ, cơ hội chính trị, muốn lái đất nước sang con đường TBCN; do đó phải kiên quyết và kiên trì đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội chính trị, chống lại các thế lực phản bội sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Là nhà lý luận hàng đầu của Đảng, đồng chí Đào Duy Tùng biết dùng báo chí để chuyển tải chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng ở trong Đảng và ngoài xã hội. Trong 30 năm hoạt động tư tưởng, lý luận, đồng chí Đào Duy Tùng đã chứng tỏ là một cây viết sắc sảo trên lĩnh vực báo chí; đồng thời trên cương vị công tác của mình, đồng chí luôn quan tâm đến sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các cấp chính quyền đối với lĩnh vực báo chí, chăm lo đến đời sống cũng như tạo mọi điều kiện có thể có cho đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, báo chí tác nghiệp.
Sở dĩ có được đường lối đổi mới đúng đắn là bởi tiếp nhận tốt thông tin, thông tin về những vấn đề liên quan lý luận chính trị và nhất là những vấn đề nẩy sinh từ thực tiễn. Phải nắm bắt được những vấn đề đó và phải tổng kết kịp thời, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Những đổi mới từng phần từ cơ sở, những việc làm “xé rào” của các cấp dưới Trung ương, những ý kiến, kể cả những ý kiến trái chiều với quan điểm của Đảng, nếu không được lắng nghe, không được khuyến khích phản ảnh, không được tự Trung ương khảo sát, nghiên cứu, tổng kết thì không thể có chủ trương, đường lối đúng được. Trong hoạt động của một chính đảng nói chung, của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nói riêng, đường lối là vô cùng quan trọng. “Sai một ly đi một dặm”, thành ngữ – sự thông thái của cộng đồng dân cư – đã tổng kết như thế. Nếu nhận được hoặc đưa thông tin sai thì nguy hiểm vô cùng. Những thông tin từ thực tiễn là chất liệu vô cùng quý báu để xây dựng đường lối. Những căn bệnh thành tích, những bản viết, những lời báo cáo sai, không trung thực đều đưa đến tai họa cho Đảng trong việc đề ra chủ trương, đường lối, quan điểm. Đó chính là phi văn hóa, phản văn hóa, không những kìm hãm sự phát triển lành mạnh mà còn làm chệch hướng đi của cả một cuộc cách mạng. Chính vì vậy, đồng chí Đào Duy Tùng đã coi trọng mặt này, đặt cơ sở cho việc lập ra những đơn vị chuyên sâu làm công tác thông tin trong các ban của Đảng, là đa dạng hóa thông tin, mở rộng công khai, chú trọng tính trung thực, nhanh nhạy, đưa tiếng nói của nhân dân, của thực tế vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, khắc phục tư duy và nguồn thông tin lạc hậu.
Năm tháng sẽ qua đi, cách mạng Việt Nam vẫn còn lại những dấu mốc, những đóng góp tích cực của những người cách mạng. Trong đội ngũ những người tác nghiệp trên mặt trận tư tưởng, lý luận chính trị hiện nay của Đảng, tấm gương của đồng chí Đào Duy Tùng vẫn tỏa sáng, vẫn là ánh sáng soi rọi trên con đường tiến bước. Ánh sáng đó sẽ được chúng ta gìn giữ, khuếch đại để bước tiếp trên chặng đường đổi mới phía trước.

Ngày nhận bài: 19-3-2024 Ngày thẩm định: 22-5-2024 Ngày duyệt đăng: 25-5-2024
1. Cho đến năm 2024, Đảng có 2 Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ: lần 1, năm 1994 và lần 2, tháng 5-2023.
3. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2015, T. 55, tr. 356