31/12/2023 - 09:38 PM - 2.075 lượt xem
Trong năm 2023, công tác đào tạo sau đại học, trong đó có đào tạo bậc tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng. Tính đến hết tháng 12-2023, đã có 4 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ thể như sau:
1. Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Bích Thúy với đề tài: “Khu ủy Tây Nam Bộ lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị từ năm 1965 đến năm 1975”.
Bảo vệ cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 27-2-2023.
Trên cơ sở tổng quan và phân tích sử liệu, luận án đã làm rõ quá trình Khu ủy Tây Nam Bộ vận dụng đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam trong lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị trong những năm 1965-1975, với những phong trào chủ yếu: đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ; đấu tranh chống bắt lính, phối hợp với mũi binh vận; phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris; phối hợp với đấu tranh quân sự chống phá chương trình bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Từ những kết quả nghiên cứu nêu trên, luận án đúc kết một số kinh nghiệm sau: Một là, chú trọng xây dựng, phát triển tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng phù hợp với tình hình địa bàn. Hai là, trong mọi giai đoạn cách mạng, luôn chú trọng công tác vận động quần chúng. Ba là, phát huy vai trò của cán bộ, đồng bào người dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn giáo để tập hợp lực lượng, thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo nhằm hoàn thành các mục tiêu cách mạng.
2. Nghiên cứu sinh Dương Thanh Bình với đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1996 đến năm 2015”.
Bảo vệ cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 15-5-2023.
Luận án nghiên cứu làm rõ những yếu tố chủ quan và khách quan, tác động đến công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Nghệ An từ năm 1996 đến năm 2015; chủ trương và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Nghệ An trên các nội dung: Đánh giá cán bộ, quy hoạch cán bộ, tạo nguồn cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; công tác bổ nhiệm, quản lý và luân chuyển cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ. Trên cơ sở đó, luận án đúc kết một số kinh nghiệm sau: Một là, nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Hai là, quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng vào điều kiện thực tiễn của địa phương, kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phù hợp. Ba là, tập trung lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả các khâu trong công tác cán bộ, đồng thời lựa chọn đúng khâu đột phá để tạo sự chuyển biến căn bản trong đội ngũ cán bộ cơ sở. Bốn là, tăng cường phối, kết hợp các cấp, các ngành, phát huy vai trò của nhân dân, của các đoàn thể quần chúng trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, coi trọng vai trò tự đào tạo, tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, khoa học và công tâm.
3. Nghiên cứu sinh Nguyễn Quang Hòa với đề tài: “Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Liên khu V từ năm 1949 đến năm 1961”.
Bảo vệ cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 21-8-2023.
Dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng, luận án nghiên cứu công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Liên khu V từ năm 1949 đến năm 1961, trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Luận án khẳng định:
- Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Liên khu V vừa tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng vô sản, chấp hành nghiêm túc chủ trương và chỉ đạo của Trung ương Đảng, vừa chủ động, linh hoạt sáng tạo dựa trên đặc điểm Liên khu V và sự chuyển biến của tình hình, của yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử từ năm 1949 đến năm 1961.
- Công tác xây dựng Đảng ở Liên khu V mang tính toàn diện (chính trị, tư tưởng, tổ chức, cả trong vùng tự do và vùng bị chiếm, trong các đơn vị hành chính và trong lực lượng vũ trang…), đồng thời, có trọng tâm trọng điểm gắn với yêu cầu cách mạng cụ thể.
- Công tác xây dựng Đảng tại khu vực miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đóng vai trò rất quan trọng trong giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, nhất là trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Từ những nội dung trên, luận án đúc kết một số kinh nghiệm: Một là: Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, căn cứ tình hình địa phương để tiến hành xây dựng chủ trương, nhiệm vụ chính trị sát đúng. Hai là: Thường xuyên tiến hành công tác tư tưởng, bảo đảm và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đề phòng và khắc phục sự máy móc, “tả” khuynh trong công tác xây dựng Đảng. Ba là: Xây dựng và bảo vệ tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên bảo đảm chất lượng, số lượng. Bốn là: Dựa vào dân từ phong trào cách mạng để xây dựng Đảng.
4. NCS Trần Hồng Quyên: “Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng Công an nhân dân ở miền Bắc từ năm 1962 đến năm 1975”.
Bảo vệ cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày 30-10-2023.
Luận án tập trung làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và sự quán triệt của Đảng đoàn Bộ Công an về xây dựng lực lượng Công an nhân dân ở miền Bắc từ năm 1962 đến năm 1975 trên một số lĩnh vực: xây dựng chính trị, tư tưởng; xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ; xây dựng cơ sở vật chất, hậu cần, kỹ thuật. Trên cơ sở đó, luận án đúc kết một số kinh nghiệm: Một là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định thành công của quá trình xây dựng và phát triển của lực lượng Công an nhân dân. Hai là, trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng Công an nhân dân luôn đảm bảo tính toàn diện, trong đó xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là công tác chính trị, tư tưởng. Ba là, quá trình xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân luôn bám sát với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Bốn là, chú trọng thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ phù hợp với điều kiện và đặc thù công tác là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của lực lượng Công an nhân dân.