Tóm tắt: Sự chủ động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương đóng vai trò quan trọng trong khôi phục, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức Đảng trong hoàn cảnh bị đối phương đánh phá ác liệt; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng một cách sâu sát và liên tục đối với phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc giải phóng dân tộc. Khi thời cơ đến, phần lớn địa phương không nhận được lệnh phát động khởi nghĩa của Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc, các Đảng bộ địa phương đã chủ động, sáng tạo, căn cứ vào Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta“, phát động khởi nghĩa, đóng vai trò to lớn trong thành công Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Trên tinh thần chủ động, sáng tạo, các Đảng bộ địa phương bám sát thực tiễn, thực hiện những phương pháp đấu tranh, phương pháp tổng khởi nghĩa, phương pháp giành chính quyền về tay nhân dân rất độc đáo, đạt hiệu quả tối ưu.

Từ khóa: Chủ động, sáng tạo; Đảng bộ địa phương; Cách mạng Tháng Tám năm 1945

1. Chủ động, sáng tạo khôi phục, củng cố tổ chức Đảng

Trước Chiến tranh thế giới II, tổ chức Đảng các địa phương được khôi phục và củng cố; 32/39 tỉnh, thành phố trên cả nước đã lập được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành với nhiều hình thức tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự. Sau khi Chiến tranh thế giới II nổ ra, đặc biệt là sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, hệ thống tổ chức Đảng tại các địa phương bị tổn thất nghiêm trọng, 44/56 đảng bộ tỉnh, thành phố bị đánh phá, hàng ngàn đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt và bị giam giữ1

Trước tình hình đó, cùng với việc “thay đổi chiến lược”, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân là nhiệm vụ trước tiên của cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trương đặt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí và hành động từ Trung ương xuống đến chi bộ vào hàng trọng yếu và cấp bách2.

Quán triệt chủ trương và chấp hành sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của các xứ ủy, trong điều kiện giao thông, liên lạc gặp nhiều khó khăn, bị gián đoạn do sự khủng bố, đánh phá ác liệt của chính quyền thuộc địa, các Đảng bộ địa phương (ĐBĐP) đã chủ động, nỗ lực xây dựng tổ chức đảng. Công cuộc khôi phục và phát triển tổ chức đảng tại các địa phương trải qua hai giai đoạn: chống khủng bố, khôi phục, bảo vệ và duy trì (1939-1942); đẩy mạnh xây dựng, phát triển tổ chức (1943-1945). Trong quá trình khôi phục, bảo vệ và phát triển tổ chức đảng tại các địa phương, cơ quan lãnh đạo các cấp, nhất là cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố, được chú trọng xây dựng. Cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố được thiết lập với nhiều hình thức tổ chức phong phú, đa dạng: tỉnh ủy (chính thức hoặc lâm thời), liên tỉnh ủy3, ban cán sự Đảng, ban cán sự liên tỉnh, tỉnh ủy ghép, ban chấn chỉnh phong trào, ủy ban sáng kiến, ban vận động thống nhất Đảng bộ. Trong đó, hai hình thức cơ bản là tỉnh ủy và ban cán sự; các hình thức như ban chấn chỉnh phong trào, ủy ban sáng kiến... không nhiều và chỉ là hình thức tổ chức mang tính quá độ để tiến tới thành lập tỉnh ủy. Số lượng thành viên trong các cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố thường có từ 3 đến 6 đồng chí (giai đoạn 1939-1942), từ 5 đến 7 đồng chí (giai đoạn 1943-1945). Hầu hết các cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố (tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự) có một bí thư, một phó bí thư. Các tỉnh ủy viên, thành ủy viên, ban cán sự được phân công phụ trách, chỉ đạo theo các khu vực, các vùng ở địa phương; phụ trách các lĩnh vực công tác tuyên truyền, công tác quân sự... Các cấp ủy Đảng trực thuộc là các huyện ủy, phủ ủy, tổng ủy, chi ủy cũng được thiết lập. Đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, tổ chức Đảng từ cấp tỉnh, thành phố đến cấp chi bộ được khôi phục, xây dựng ở 58 tỉnh, thành phố trên cả nước (tăng 6 địa phương so với năm 1939); 50 tỉnh, thành phố đã thành lập cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố (tăng 16 đầu mối so với năm 1939)4. Tại một số địa phương, do chưa lập được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố, một số quận ủy, chi bộ Đảng đã thực hiện một số công tác của tỉnh ủy lâm thời, có vai trò quan trọng đối với công cuộc vận động cách mạng ở các địa phương5. Số lượng đảng viên trong toàn Đảng trong thời điểm Tổng khởi nghĩa, theo thống kê chưa đầy đủ tại Hội nghị đại biểu toàn Đảng Cộng sản Đông Dương (diễn ra ở Tân Trào, từ ngày 14 đến ngày 15-8- 1945), là 1.302 đồng chí6.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn cách mạng, do liên lạc với Trung ương bị gián đoạn, nhiều ĐBĐP đã chủ động liên kết với nhau để lập cơ quan chủ đạo chung nhằm phối hợp và thống nhất hành động7. Các ĐBĐP cũng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ, duy trì các cơ quan lãnh đạo Đảng, tạo điều kiện cho cơ quan đầu não hoạt động. Ở Trung Kỳ, trong những năm tháng khó khăn, nhờ sự bảo vệ, hỗ trợ của các Đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Nam... Xứ ủy Trung Kỳ duy trì hoạt động đến giữa năm 1942. Từ năm 1943, Tỉnh ủy Thanh Hóa được Ban Thường vụ Trung ương giao nhiệm vụ liên lạc với các tỉnh miền Trung để lập lại Xứ ủy. Giữa năm 1944, một số đồng chí hoạt động ở Nghệ An đã ra bắt liên lạc với Tỉnh ủy Thanh Hóa bàn biện pháp khôi phục Xứ ủy Trung Kỳ. Ở Nam Kỳ, trên cơ sở các ĐBĐP được khôi phục, Xứ ủy Nam Kỳ được tổ chức lại vào tháng 10-1943. Các Ban cán sự Hà Đông, Bắc Ninh, Bắc Giang... đã có nhiều đóng góp cho sự hình thành và phát huy vai trò của các An toàn khu (ATK) của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ...

Sự đa dạng, phong phú về loại hình và cơ cấu tổ chức, nhân sự của cơ quan lãnh đạo các cấp ở địa phương, cuộc hồi sinh hệ thống tổ chức Đảng tại các địa phương thể hiện rõ nét tinh thần trách nhiệm, sự chủ động, sáng tạo của các ĐBĐP trong điều kiện hoạt động bí mật, bị chính quyền thuộc địa đánh phá, giao thông liên lạc nhiều khi bị gián đoạn. Nhà sử học Pháp Philippe Devillers viết: “Đảng Tờrốtkít thì hoàn toàn bị tiêu diệt, còn Đảng cộng sản thì trái lại hoạt động rất khôn khéo, cẩn thận giữa được bộ máy lãnh đạo của mình và từ nay thì lao vào hoạt động bất hợp pháp một cách hăng hái”8.

Công tác xây dựng Đảng của các ĐBĐP là nhân tố quyết định sự phát triển phong trào cứu quốc tại các địa phương, có vai trò quan trọng đưa đến cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc diễn ra đồng thời trên cả nước vào tháng Tám năm 1945. Được xây dựng đều khắp ở 3 kỳ, cả ở khu vực miền núi, đồng bằng và thành thị, các ĐBĐP là hạt nhân tập hợp và xây dựng lực lượng mọi mặt, phát huy vai trò lãnh đạo phong trào cứu quốc ở các địa phương.

2. Chủ động, sáng tạo trong xây dựng thực lực và lãnh đạo phong trào cứu quốc

Thực hiện đường lối cứu quốc của Đảng, căn cứ vào tình hình thực tiễn địa phương, các ĐBĐP đã sáng tạo nhiều hình thức vận động, lãnh đạo nhân dân phong phú, đa dạng; sáng tạo trong sử dụng hiệu quả công cụ báo chí để tuyên truyền đường lối, chủ trương cứu quốc của Đảng, của Mặt trận Việt Minh, khêu gợi lòng yêu nước, căm thù Pháp-Nhật tàn bạo, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh đổ đế quốc, phát xít và tay sai để giành độc lập, tự do cho dân tộc, tự cứu mình khỏi họa diệt vong; trong đấu tranh vạch mặt Tờrốtkít bọn phản động, bọn quốc gia cải lương, bọn Pháp-Việt đề huề...

Chủ động, sáng tạo trong tổ chức quần chúng đấu tranh. Các ĐBĐP vận động, tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân tham gia các đoàn thể cứu quốc hoạt động bí mật của Mặt trận Việt Minh, qua đó, xây dựng lực lượng chính trị đông đảo, cô lập kẻ thù. Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh gọi là “Xã hoàn toàn”, “Tổng hoàn toàn”; đến cuối năm 1942, xuất hiện các “Châu hoàn toàn”. Mặt trận Việt Minh với 3 đoàn thể cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc được các ĐBĐP Hà Đông, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Hà Nam, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình (Bắc Kỳ); Thanh Hóa, Quảng Bình (Trung Kỳ)... tập trung xây dựng. Tại Nam Kỳ, từ cuối năm 1941, những đảng viên còn lại ở ngoại vi thành phố Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ Dầu Một)... tiến hành xây dựng các cơ sở của Việt Minh.

Một số địa phương ở Nam Kỳ, do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh của Đảng, nên các đồng chí đã lập ra những tổ chức quần chúng với các hình thức như “nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội nhà vàng”, “Hội đổi công” (Thủ Dầu Một), “Hội cùng quê”, “Hội tương tế”, “Hội ái hữu”, (Biên Hoà)... Những hình thức tổ chức trên đã góp phần vào bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị địch khủng bố trắng, đấu tranh chống địch đánh đập, đòi tăng lương, hạ mức khoán trong các đồn điền. Đặc biệt, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, các Đảng bộ ở Nam Kỳ tiến hành tập hợp, xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng thông qua tổ chức “Thanh niên Tiền phong”. Thanh niên Tiền phong hoạt động công khai đã nhanh chóng thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân ở các tỉnh Nam Kỳ. Ngày 22-8-1945, Thanh niên Tiền phong gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo, tổ chức trực tiếp của các ĐBĐP, hàng triệu quần chúng tự nguyện đứng vào hàng ngũ trong các tổ chức yêu nước do Đảng lãnh đạo, tạo nên một lực lượng chính trị hùng hậu, áp đảo chính quyền của quân phiệt Nhật và tay sai trong những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Sáng tạo trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, căn cứ địa cách mạng. Các ĐBĐP vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng một cách chủ động, sáng tạo trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng với các hình thức tổ chức từ thấp đến cao, từ tự vệ đến tự vệ chiến đấu, tiến lên xây dựng tiểu tổ du kích và đội du kích tập trung. Nhiều ĐBĐP chủ động thành lập các căn cứ địa địa phương, đóng góp xây dựng các chiến khu Trung ương. Tại Thanh Hóa, trong năm 1941, Tỉnh ủy Thanh Hóa chủ động chỉ đạo xây dựng Chiến khu cách mạng Ngọc Trạo (huyện Thạch Thành). Sau khi phát động cuộc Khởi nghĩa ở Ba Tơ (11-3-1945), Tỉnh ủy Quảng Ngãi chỉ đạo xây dựng các chiến khu chống Nhật ở Cao Muôn (Ba Tơ), ở Vĩnh Tuy (Sơn Tịnh), Bầu Bái (Mộ Đức). Tháng 6-1945, Tỉnh ủy Hải Dương sau khi lãnh đạo nhân dân nổi dậy đánh chiếm các đồn địch ở Chí Linh, Đông Triều, Mạo Khê, Trành Bạch đã chỉ đạo thành lập Chiến khu Đông Triều. Sự ra đời của các chiến khu: Hòa-Ninh-Thanh (5-1945), Âu Cơ (Chiến khu Vần-Hiền Lương) (6-1945), Khu Giải phóng Việt Bắc (6-1945),...có sự đóng góp quan trọng của các Đảng bộ Thanh Hóa, Ninh Bình, Hòa Bình, Phú Thọ, của các tổ chức Đảng địa phương ở khu vực Việt Bắc.

Chủ động phát động, lãnh đạo nhân dân đấu tranh với các những hình thức, quy mô, mức độ khác nhau, ngày càng cao, càng quyết liệt; kết hợp những mục tiêu thiết thực trước mắt với mục tiêu giành chính quyền; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Trong những năm 1941-1944, các ĐBĐP lãnh đạo nhân dân vùng nông thôn đấu tranh chống chính sách hà lạm, chống cướp đoạt ruộng đất, lấn chiếm đất công; chống chính sách cưỡng ép nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống sưu cao, thuế nặng, phụ thu, lạm bổ; chống tham ô công quỹ, chống bắt phu, bắt lính; mít tinh ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc... Các ĐBĐP tổ chức công nhân trong các nhà máy, hầm mỏ đấu tranh dưới các hình thức đình công, bãi công, bãi thực; đưa yêu sách đòi tăng lương, trả tiền lương đúng hạn, đòi bán gạo, vải, diêm, xà phòng, phản đối ngược đãi, đánh đập công nhân. Các Đảng bộ, tổ chức Đảng tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn... có nhiều sáng tạo trong tập hợp, vận động tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên tham gia các phong trào yêu nước công khai, hợp pháp. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các ĐBĐP đã góp phần rất quan trọng, tạo nên sự nhịp nhàng, rộng khắp của phong trào cách mạng trên phạm vi cả nước.

Chủ động, sáng tạo phát động nhân dân vùng dậy đấu tranh, tập dượt lực lượng. Trong cao trào kháng Nhật, cứu nước do Trung ương Đảng phát động, các ĐBĐP đóng vai trò rất quan trọng, chủ động và sáng tạo phát động nhân dân vùng dậy đấu tranh, tập dượt lực lượng, tạo nên sự bùng lan của phong trào cách mạng khắp cả nước. Các Đảng bộ, tổ chức Đảng tại các địa phương ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, như: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Kiến An, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ngãi,... chủ động, nhanh chóng lãnh đạo nhân dân đứng lên thực hiện khởi nghĩa từng phần, mở đường cho Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng bộ Quảng Ngãi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11-3-1945). Tháng 7-1945, chi bộ Đảng huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền cấp huyện, trở thành huyện đồng bằng đầu tiên khởi nghĩa thắng lợi bằng lực lượng tại chỗ. Các đảng bộ, tổ chức Đảng địa phương tại các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Đông, Sơn Tây, Quảng Yên, Hòn Gai, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... phát động nhân dân phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói, tạo khí thế cách mạng sôi động trong các tầng lớp nhân dân. Đồng chí Trường-Chinh viết: “Chính do những cuộc đánh phá các kho thóc và các đồn điền mà phong trào cứu quốc phát triển rầm rộ, nhân dân võ trang nhanh chóng, các đội tự vệ thành lập mau lẹ ở những nơi chưa hề có phong trào, và những Ủy ban giải phóng nảy nở ra ở nhiều tỉnh”9.

Hoạt động chủ động, sáng tạo của các ĐBĐP đã đóng vai trò quan trọng, trực tiếp làm lung lay chính quyền thuộc địa tại các địa phương, tạo điều kiện để cả nước bước vào thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa lịch sử Tháng Tám năm 1945.

3. Chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền 

Quán triệt sâu sắc tinh thần bản Chỉ thị lịch sử “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương ban hành ngày 12-3-1945, ngay sau khi nhận được thông tin Nhật đầu hàng Đồng minh, nhiều địa phương mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương do điều kiện liên lạc khó khăn10, với tinh thần chủ động, sáng tạo, đã chớp thời cơ phát động, lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh đổ chính quyền phát xít Nhật và tay sai.

Ngày 18-8-1945, tuy chưa nhận được lệnh khởi nghĩa, song thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Mỹ Tho chủ động phát động và lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ thắng lợi.

Điển hình và là ngọn cờ đầu cho sự chủ động, sáng tạo trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền là cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội do Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội lãnh đạo. Với tinh thần “Thời cơ đã đến, không thể ngồi chờ được”, ngay sau khi nhận được tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội quyết định phát động khởi nghĩa, lập Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban khởi nghĩa). Bám sát diễn biến của tình hình, Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội quyết định khởi nghĩa giành chính quyền theo phương thức: không tấn công quân Nhật, tiến hành vận động quân Nhật không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, “tổ chức mít tinh hiệu triệu quần chúng đánh đổ chính quyền, rồi biến thành tuần hành vũ trang, dùng áp lực của quần chúng có lực lượng vũ trang làm nòng cốt chiếm đóng các cơ quan trọng yếu của địch trong thành phố, giành chính quyền”11. Theo phương thức đó, khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội diễn ra nhanh chóng, trọn vẹn và ít đổ máu.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19-8) đã gợi mở cho Trung ương Đảng một phương thức khởi nghĩa mới để chỉ đạo “giành lấy chính quyền một cách không phải đổ máu ở những nơi còn giằng co với Nhật và ngụy quyền thân Nhật, hoặc ở ngay những nơi ta đã giành được chính quyền rồi nhưng chính quyền chưa được ổn định”12. Lúc đầu, Trung ương Đảng đưa ra phương thức khởi nghĩa “dùng lực lượng vũ trang tước vũ khí của quân đội Nhật ở bất cứ nơi nào chúng ta có điều kiện”13. Lệnh khởi nghĩa (13-8-1945) chỉ thị cho quân dân toàn quốc “tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng... đồng bào toàn quốc... hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù”14. Thực hiện chủ trương đó, ở nhiều địa phương, ta vừa tổ chức tiến công vừa kêu gọi quân Nhật đầu hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện phương thức khởi nghĩa như trên gặp rất nhiều khó khăn. Khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh thì quân đội Nhật ở Đông Dương còn gần như toàn bộ Quân đoàn 38 và lính ở các nơi chuyển về tổng cộng là 82.260 tên15, có khả năng đối phó với lực lượng vũ trang còn nhỏ bé của ta nếu bị tấn công. Các cuộc tấn công vũ trang của ta vào vị trí quân Nhật ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Ngãi đã không giành được thắng lợi như mong muốn.

Từ thực tế khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Trung ương Đảng đề ra phương pháp, “một trong những hình thức đấu tranh chính trị chống Nhật” là “thương lượng với Nhật”. Trung ương đã chỉ thị cho các địa phương khởi nghĩa theo phương thức Hà Nội: “ở Hà Nội giữa chúng ta và quân đội Nhật đã có thương lượng rồi, chúng đã bằng lòng giao cho “chính quyền Việt Minh” một số vũ khí... ta đã bảo đảm giúp chúng giải quyết vấn đề lương thực; bây giờ các tỉnh, nơi nào có thể thương lượng theo hướng đó thì tiến hành thương lượng, nhưng nơi nào quân đội Nhật không chịu thương lượng, cứ đánh ta thì ta cương quyết đánh lại”16. Đồng chí Trường-Chinh nhận định: “sáng kiến và anh dũng của nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội đã cướp ngay lấy thời cơ nổi dậy giành chính quyền...”17. Ngoài Hà Nội và Sài Gòn, 25 tỉnh, thành phố đã trực tiếp hoặc gián tiếp, gặp gỡ trực diện hay gửi tối hậu thư yêu cầu Nhật không được can thiệp vào cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta18.

Sau khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Tổng khởi nghĩa diễn ra dồn dập trên cả nước với nhiều hình thức rất sáng tạo, phong phú, đa dạng. Trong vòng 7 ngày, từ ngày 19 đến ngày 26-8-1945, có 56/65 tỉnh, thành phố, đặc khu khởi nghĩa. Từ ngày 27 đến ngày 28-8-1945 là thời gian kết thúc của tổng khởi nghĩa, trong đó Hà Tiên là điểm nổ khởi nghĩa cuối cùng trên phạm vi cả nước.

Đúng như dự đoán của Đảng: “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập”19. Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, có 4 tỉnh: Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Hải Ninh không giành được chính quyền. Tỉnh Vĩnh Yên không thiết lập được chính quyền ở tỉnh lỵ. Hiện tượng các tỉnh không nổ ra khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho thấy: mặc dù điều kiện khách quan rất thuận lợi nhưng nếu không chuẩn bị kịp thời, đầy đủ lực lượng cách mạng, đặc biệt là không có tổ chức Đảng lãnh đạo trực tiếp ở các địa phương, thì khởi nghĩa không thể nổ ra và kết thúc thắng lợi hoàn toàn.

Hiện thực lịch sử cho thấy, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 vô cùng đa dạng, phong phú, thể hiện tính năng động sáng tạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh các cấp tại các địa phương. 

Về con đường khởi phát và kết thúc khởi nghĩa thắng lợi của các địa phương trên cả nước: Trong số 65 tỉnh, thành phố, đặc khu khởi nghĩa bùng lên trong Cách mạng Tháng Tám thì có 36 tỉnh, thành phố về cơ bản khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện lên tỉnh, từ ngoại thành vào nội thành, rồi tiếp theo kết thúc ở một số huyện, xã còn lại20. 15 tỉnh về cơ bản khởi nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện21. Trừ Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, còn 11 tỉnh, đặc khu khởi nghĩa nổ ra ở tỉnh lỵ và nông thôn trong cùng một ngày22. Hình thái khởi nghĩa chung nhất, mang tính bản chất là vừa nổi dậy đồng loạt ở cả nông thôn và thành thị, vừa tác động dây chuyền giữa các vùng, miền với nhau, tạo nên một chiến thắng vĩ đại, nhanh gọn, kịp thời, ít đổ máu và gần như đồng thời trên khắp cả nước.

Về sử dụng lực lượng: Hầu hết các tỉnh khởi nghĩa có kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ. Khởi nghĩa diễn ra theo 2 cách thức: huy động quần chúng mít tinh, sau đó biến mít tinh thành tuần hành của quần chúng, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đi chiếm các công sở của chính quyền địch (điển hình là Hà Nội); dùng lực lượng tự vệ đột nhập tấn công chiếm các công sở của địch, đồng thời huy động quần chúng biểu tình làm áp lực buộc chính quyền địch phải đầu hàng, khởi nghĩa kết thúc bằng cuộc mít tinh tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng (điển hình là Sài Gòn).

Trong tổng khởi nghĩa, hầu hết các tỉnh có sự kết hợp chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị, tạo nên sức mạnh tổng hợp đè bẹp quân thù23. Một số địa phương như: Châu Đốc, Long Xuyên, Bà Rịa, Gò Công, Bình Thuận giành chính quyền theo phương thức bàn giao, thoả thuận. Ở Bà Rịa, tỉnh trưởng đã bỏ trốn trước khi khởi nghĩa bùng nổ. Tại Thanh Hóa, ĐBĐP vừa dùng phương pháp bạo lực cách mạng của quần chúng (ở các huyện trung du, đồng bằng) vừa kết hợp phương thức vận động tri châu, chuyển hóa chính quyền, biến trở lực thành trợ lực (ở các châu miền núi).

Về thiết lập chính quyền cách mạng: Tại Quảng Yên, khởi nghĩa là việc lập chính quyền vì trước đó ta đã làm chủ hoàn toàn tỉnh lỵ. Hầu hết các tỉnh đều tiến hành đập tan chính quyền địch, sau đó tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng. Riêng 4 tỉnh: Nam Định, Hải Phòng, Gia Lai, Sóc Trăng, quần chúng tổ chức mít tinh tuyên bố thành lập chính quyền trước, sau đó tiến hành chiếm các công sở của địch.

Hiện thực diễn biến của Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc cho thấy, cuộc cách mạng Đông Dương đã không “kết liễu” “bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang” như Đảng đã trù liệu. Chính sự chủ động, sáng tạo của các ĐBĐP đã tạo nên nét độc đáo trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, làm phong phú thêm kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng. Trong thành công rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các ĐBĐP là minh chứng sinh động cho tính quyết định, sự đúng đắn, tài tình của Đảng trong công cuộc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

  

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 9/2020

1. Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng ngày 6, 7, 8-11-1939 ghi rõ: “Vì sự khủng bố mới đây các đảng bộ bị phá hoại ít nhiều, sự liên lạc của Trung ương với các Xứ ủy trước kia đã thưa thớt, ngày nay lại càng rời rạc; sự liên lạc của các Xứ ủy với Tỉnh ủy, Tỉnh ủy với các quận huyện, các chi bộ nhiều nơi cũng bị đình”. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 6, tr. 560); Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (tháng 5-1941) viết: “sau những cuộc khủng bố 1939-1940, Đảng ta lại hao tổn rất nhiều cán bộ... Do đó cuộc vận động của Đảng ta bị thu hẹp lại và không phát triển được... manh mối Đảng hay bị đứt và công tác đảng hay bị đình đốn”. Xem: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 7, tr. 132-133

2. HNTƯ tháng 11-1939 chủ trương: “phải lập tức khôi phục hệ thống Trung-Nam-Bắc và làm cho các đảng bộ từ chi bộ đến Trung ương mật thiết liên lạc”. Xem: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 6, tr. 560); HNTƯ tháng 11-1940 xác định: “vô sản giai cấp Đông Dương phải giữ quyền lãnh đạo cách mệnh”, phải luôn luôn “hết sức củng cố và mở rộng Đảng”. Xem: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 7, tr. 74); HNTƯ tháng 5-1941 khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng phải được xây dựng vững mạnh, thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân “đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng”. Xem: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T. 7, tr. 136

3. Liên Tỉnh ủy đề cập ở đây là tên gọi hình thức tổ chức cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh chung cho các tỉnh liền kề nhau mà chưa có cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh riêng ở mỗi tỉnh (như Liên Tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng ra đời năm 1944), khác hình thức tổ chức cơ quan lãnh đạo cùng tên gọi, song, lại là cơ quan lãnh đạo cấp khu vực (Khu ủy), như các Liên tỉnh ủy A, B, C, D, E (các Khu ủy A, B, C, D, E) trực thuộc Xứ ủy Bắc Kỳ, các Liên tỉnh ủy miền Đông, Liên Tỉnh ủy miền Tây, Liên Tỉnh ủy Hậu Giang trực thuộc Xứ ủy Nam Kỳ, được tổ chức trong những năm 1939-1945

4. Các số liệu trên thống kê từ các công trình lịch sử đảng bộ các tỉnh, thành phố đã xuất bản, tính đến tháng 7-2020

5. Quận ủy Châu Thành (tỉnh Hà Tiên), Chi bộ Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa), Chi bộ Tràng Tiền (tỉnh Biên Hòa)...

6. Theo “Biên bản Toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương (diễn ra ở Tân Trào, ngày 14 đến ngày 15-8- 1945”, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, thì Nam Kỳ có 700 đảng viên; Trung Kỳ (tính cả Thanh Hóa): 181 đảng viên; Lào (tính cả Thái Lan): 31 đảng viên; Bắc Kỳ (khu vực do Xứ ủy Bắc Kỳ phụ trách, Khu Giải phóng Việt Bắc, Ninh Bình, Vĩnh Yên): 390 đảng viên. Theo số liệu trong “Báo cáo tổng kết tình hình Đảng từ trước ngày khởi nghĩa đến nay (26-11-1949)”, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, ĐVBQ 27, số T.T.12, thì trong Tổng khời nghĩa, toàn Đảng có 3.000 đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: năm 1945, Đảng có khoảng 5.000 đảng viên (một số còn bị giam trong nhà tù đế quốc). Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 12, tr. 409

7. Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra và bị đàn áp, ngày 23-3-1941, các đảng viên còn lại 9 tỉnh miền Tây Nam Kỳ đã họp tại phố Chín Căn (tỉnh lỵ Rạch Giá) lập ra Liên tỉnh ủy Hậu Giang, lãnh đạo 9 tỉnh thuộc miền Tây Nam Kỳ là Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên, Sa Đéc. Tháng 6-1945, các đồng chí ở 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Lâm Viên họp tại làng Vạn Phước (Ninh Thuận), cử ra Ban liên lạc của 3 tỉnh nhằm trao đổi tình hình, giúp đỡ nhau phát triển lực lượng cách mạng, cử người đi chắp nối liên lạc với trên để xin chỉ thị hành động. Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng và Quảng Ngãi họp, lập ban lãnh đạo chung của 2 Đảng bộ. Tháng 7-1945, đại biểu các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà và Quảng Ngãi họp tại thôn Vĩnh Lộc, xã Tịnh Biên (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi), cử ra Ban liên lạc chung, lấy Quảng Ngãi làm trung tâm phong trào các tỉnh Trung và Nam Trung Kỳ....

8. Philippe Devillers: Histore du Vietnam de 1940-1952, Édition du Seuil, Paris, 1952, p. 72 

9. Trường-Chinh: Cách mạng tháng Tám (xuất bản lần thứ sáu), Nxb Sự Thật, H, 1960, tr. 21

10. Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, các tỉnh nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương là: Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Sơn Tây, Cao Bằng, Bắc Cạn, Kiến An, Hoà Bình, Lạng Sơn, Phú Thọ, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế

11. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh-Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 192

12, 13, 17. “Bài giải đáp của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám, tại trường Nguyễn Ái Quốc”, 4-1963, Tài liệu Viện Lịch sử Đảng 

14, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T.7, tr 421, 561

15. Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4-2001, tr. 59

16. Trường-Chinh: “Một số vấn đề về Cách mạng tháng Tám Việt Nam”, in trong Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật, H, 1963, tr. 56

18. Đó là các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Phú Yên, Thanh Hóa, Khánh Hoà, Yên Bái, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sơn Tây, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Nghệ An, Hoà Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Đắk Lắk, Bình Thuận, Phú Thọ, Châu Đốc, Biên Hoà, Bà Rịa, Sơn La, Hưng Yên

20. Đó là các tỉnh: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Thái Bình, Khánh Hoà, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Nguyên, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An, Nam Định, Tuyên Quang, Hưng Yên, Kiến An, Thừa Thiên-Huế, Hà Đông, Hoà Bình, Quảng Trị, Gia Lai, Lâm Viên, Bạc Liêu, Hà Nam, Đắk Lắk, Lạng Sơn, Phú Thọ, Chợ Lớn, Long Xuyên, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Biên Hoà, Sơn La, Quảng Ngãi, Đồng Nai Thượng

21. Đó là các tỉnh: Quảng Nam, Mỹ Tho, Ninh Thuận, Tân An, Bình Định, Bạc Liêu, Quảng Yên, Phú Yên, Bình Thuận, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Rạch Giá, Hà Tiên

22. Đó là các tỉnh: Phúc Yên, Quảng Bình, Hải Phòng, Gò Công, Kon Tum, Gia Định, Bà Rịa, Trà Vinh, Tây Ninh, Bến Tre, đặc khu Hồng Gai

23. Các tỉnh huy động lực lượng từ các huyện, xã tiến vào thị xã, tỉnh lỵ phối hợp với lực lượng tại chỗ giành chính quyền: Bắc Giang, Quảng Nam, Mỹ Tho, Hà Nội, Phúc Yên, Khánh Hoà, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Nguyên, Sơn Tây, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An, Tuyên Quang, Ninh Thuận, Hưng Yên, Kiến An, Thừa Thiên-Huế, Hải Phòng, Hà Đông, Hoà Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Lâm Viên, Bạc Liêu, Hà Nam, Gò Công, Sài Gòn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Kon Tum, Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc, Châu Đốc, Hồng Gai, Sơn La, Cần Thơ, Rạch Giá, Quảng Ngãi, Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.