Tóm tắt: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là vấn đề lớn, xuyên suốt quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia trên thế giới ngày càng liên kết và phụ thuộc chặt chẽ với nhau nên việc kết hợp sức mạnh dân tộc (các nhân tố bên trong - nội lực) và sức mạnh thời đại (các yếu tố bên ngoài - nguồn ngoại lực) của mỗi quốc gia, dân tộc ngày càng có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự thành bại trong chiến lược phát triển của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.

Từ khóa: Nhận thức của Đảng; sức mạnh dân tộc; sức mạnh thời đại; thời kỳ đổi mới

1. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới

Sức mạnh dân tộc là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của đất nước, bao gồm: toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh cứng và sức mạnh mềm, được tạo nên bởi quy mô và chất lượng của dân số; các nguồn lực tự nhiên (đất đai, rừng, biển, khoáng sản...); tiềm lực kinh tế và quân sự; vị trí địa - chính trị và địa - kinh tế của đất nước; truyền thống yêu nước, tự lực, tự cường; nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; đường lối đúng đắn của Đảng và sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế chính trị và ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế.

Sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như: hòa bình, hợp tác và phát triển; thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững, tự chủ; xu thế hợp tác và liên kết kinh tế. Sức mạnh của sự đồng thuận trong cộng đồng quốc tế với một trật tự thế giới mới dựa trên thông lệ quốc tế; sự dân chủ, công bằng, bình đẳng; sức mạnh của các quốc gia phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa...

Vận dụng quan điểm mácxít và tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc kết hợp giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặt Việt Nam là một phần của thế giới. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đánh giá, quan sát toàn diện “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”1. Trong quan hệ yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, theo Người, yếu tố nội sinh bên trong là nguồn lực chính, là gốc rễ của sức mạnh của dân tộc.

Từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng luôn nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của việc kết hợp đúng đắn các nguồn lực và các trào lưu cách mạng trên thế giới để tiếp thêm sức mạnh cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc. Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng trong các thời kỳ lịch sử, bước vào thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tiếp tục được bổ sung, phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới chính sách đối ngoại. Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau”2 nhằm phấn đấu tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”3.

Trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu Liên Xô rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Đại hội đại lần thứ VII (1991) của Đảng thông qua Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về đối ngoại, Đại hội đã phát triển chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở và tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”4. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở đổi mới đường lối đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, Đại hội khẳng định: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”5. Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm phát huy nội lực, tranh thủ nguồn ngoại lực, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng chủ trương: “Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”6.

Bước vào Thiên niên kỷ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”7. Đại hội chỉ rõ: Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”8. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng chủ trương mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực, bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; phản đối mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”9. Trong khi thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập, chú trọng quan hệ với các nước lớn, với nước láng giềng, Đảng cũng hết sức quan tâm giữ gìn phát triển các mối quan hệ truyền thống và quan hệ với Phong trào Không liên kết. Phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự của mỗi dân tộc là điều kiện cho sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới. 

Bổ sung và phát triển Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng tiếp tục phát triển đường lối đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”10. Bên cạnh đó, Đảng luôn đặt nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”11, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược. Đại hội cho rằng, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Từ nhận thức đó, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (Bổ sung, phát triển 2011)Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 khẳng định, mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI, trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu tố nội lực; mặt khác, đòi hỏi phải chủ động, tích cực tiếp nhận các yếu tố ngoại lực như: vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá tinh thần gắn liền với công nghệ hiện đại. Các yếu tố ngoại lực chính là tác nhân quan trọng để hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và chuyển hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực.

Tổng kết 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”12.

Với đường lối, chủ trương đó, Việt Nam đã hội nhập ngày càng toàn diện vào đời sống quốc tế, tham gia một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, tạo thế, tạo lực và tiền đề để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Nhờ chú trọng thu hút và kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phòng, an ninh của đất nước liên tục phát triển, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, quan hệ đối ngoại phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Với thế và lực mới, cùng với tiềm lực, uy tín, sức mạnh, niềm tin và khát vọng, Việt Nam đã bước sang trang mới với nền tảng vững chắc để phát triển nhanh và bền vững.

Trên tinh thần đó, Đại hội lần thứ XIII (2021) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”13. “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người quan trọng nhất”14.

 Như vậy, mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và CNXH đã đưa cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hòa nhập trào lưu giải phóng của nhân loại, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc và CNXH gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo đã chứng minh đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nhân tố hết sức cần thiết, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng.

Sự phát triển trong nhận thức của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên cơ sở lấy hội nhập kinh tế làm trọng tâm. Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Đến năm 2024, Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc và mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên Hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác15. Đó những kết quả quan trọng, tạo nên kỳ tích: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”16.

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và thực hiện hiệu quả chủ trương của Đại hội XIII (2021) của Đảng: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể”17 nhằm tối ưu hóa nguồn nội lực trong nước và nguồn ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững, theo đúng định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Thứ hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực chất là gắn độc lập, tự chủ của đất nước với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng thời, nâng cao nhận thức về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động nắm bắt thời cơ, tiến hành hội nhập quốc tế trên tất cả phương diện, từ kinh tế, văn hóa - xã hội đến quốc phòng - an ninh...

Để nâng cao hiệu quả kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, cần tiếp tục kế thừa truyền thống “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc - căn cốt của sức mạnh dân tộc và nhanh chóng nắm bắt, tận dụng thời cơ để vượt qua thách thức, tạo thế ổn định, phát triển đất nước. Những nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân sẽ tạo cho đất nước khả năng tận dụng tối ưu những yếu tố có lợi, loại trừ những yếu tố bất lợi, vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, tranh thủ ngoại lực, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đất nước luôn ổn định và phát triển.

Thứ ba, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của chuyển đổi số và của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngoại giao Việt Nam cần chuyển dịch theo hướng hiện đại, thể hiện ở nội dung, phương pháp triển khai, cách thức quản trị, trong đó nhấn mạnh sự thích ứng với các yếu tố như: ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại giao số, ngoại giao trực tuyến, ngoại giao thượng đỉnh… Bên cạnh đó, việc chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông; cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn, dẫn tới sự cọ xát, cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, gay gắt. Trong bối cảnh đó, Việt Nam chủ trương tôn trọng và xử lý khéo léo quan hệ với các nước. Đặc biệt, đối với các nước lớn, Việt Nam cần đánh giá kỹ sự điều chỉnh chính sách của những nước này, hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ với từng nước; từ đó, tạo thuận lợi cho quá trình hoạch định chính sách, nhằm xây dựng lòng tin và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng như hiện thực hóa vai trò dẫn dắt, trung gian, hòa giải của Việt Nam, góp phần gắn kết sâu sắc hơn nữa Việt Nam với thế giới.

Thứ tư, tạo sự cân bằng giữa việc phát triển nội lực của đất nước với tận dụng nguồn lực bên ngoài trên cơ sở chú trọng và đẩy mạnh các hoạt động nâng tầm sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời, tranh thủ và phát huy sức mạnh của thời đại. Bên cạnh đó, không nên quá phụ thuộc vào bên ngoài dẫn đến tình trạng thiếu tính độc lập, tự chủ, dễ bị “hòa tan” cũng như rơi vào tình trạng thụ động, bảo thủ hay biệt lập trong bối cảnh đất nước đang tăng cường quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện nhằm phát huy ý chí “độc lập, tự lực, tự cường”, phát huy tối đa các mục tiêu về bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của đất nước đến giữa thế kỷ XXI.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nguồn nội lực, tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực là bài học xuyên suốt trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, quyết định sự thành bại của quá trình xây dựng, phát triển đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Hiện nay, trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phải luôn linh hoạt, thích ứng với các xu thế vận động của thế giới, giúp Việt Nam hội nhập kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và XHCN, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.



Ngày nhận bài: 6-2-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 25-2-2025; ngày duyệt đăng: 28-2-2025

Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
** Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên

1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011 T. 3, tr. 326

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H, 1987, tr. 105, 99

 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, H, 1991, tr. 147

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 114

6. Sđd, T. 55, tr. 313

7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 42, 119-120

 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 112

10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 46, 70

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 153

13, 14, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. 1, tr. 117-118, 110-111, 25, 162-163

 15. Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng", báo Nhân Dân, ngày 1-2-2024.