Tóm tắt: Với bản lĩnh chính trị vững vàng và xuất phát từ thực tiễn đất nước trong những năm 1976-1979, Đảng và nhân dân Việt Nam đã kiên trì tháo gỡ khó khăn, từng bước tìm tòi con đường đổi mới. Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa IV (8-1979), được coi là điểm khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, mở đầu quá trình tìm kiếm giải pháp đưa đất nước từng bước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Bài viết tập trung làm rõ bối cảnh dẫn đến Hội nghị và những nội dung cơ bản của Hội nghị.

Từ khóa: Hội nghị Trung ương 6, khóa IV; bước đột phá đầu tiên; đổi mới tư duy kinh tế

1. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển đất nước, song cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Về thuận lợi, đất nước thống nhất, hòa bình, non sông thu về một mối; nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, tập trung khôi phục, phát triền kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IV (1976) của Đảng, bước đầu đạt được một số kết quả trên nhiều lĩnh vực. Uy tín và vị thế của Việt Nam trong khối các nước XHCN và trên trường quốc tế được nâng cao. Quan hệ đối ngoại được mở rộng với nhiều nước trên thế giới. Về khó khăn, trải qua 30 năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất kỹ thuật phần lớn bị phá hủy; thiên tai, mất mùa xảy ra liên tiếp; kinh tế bị bao vây, cấm vận. Các thế lực phản động, nhất là FULRO tăng cường phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH của Việt Nam, kích động, lôi kéo người dân di tản ra nước ngoài. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tiến hành 2 cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Pol Pot.

Trong phát triển kinh tế - xã hội, nhiều khó khăn khách quan, đặc biệt là chủ quan đã kìm hãm sự phát triển. Nhiều sai lầm, thiếu sót trong đường lối, xây dựng chính sách, quản lý kinh tế, xã hội và tổ chức thực hiện; trong đó việc áp dụng cơ chế quản lý tập trung, bao cấp một cách máy móc, khiến các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế- xã hội không đạt được yêu cầu do Đại hội IV của Đảng đề ra. Công tác tải tạo XHCN ở miền Nam còn nóng vội, tiến hành ồ ạt theo mệnh lệnh đã tác động tiêu cực đến sự phát triển. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị giảm sút. Trong lĩnh vực nông nghiệp, phổ biến là kinh tế tập thể với mô hình hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, quản lý theo mệnh lệnh hành chính, “rong công, phóng điểm”, phân phối theo định suất, định lượng, không phát huy tính chủ động, tích cực của người nông dân. Trong công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp trông chờ vào Nhà nước, sản xuất theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao, Nhà nước bù lỗ và hưởng lãi; đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến trình trạng trì trệ, kém phát triển trong sản xuất công nghiệp, lưu thông phân phối ách tắc, lạm phát tăng mạnh. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng; bình quân lương thực theo đầu người giảm từ 274,4 kg năm 1976 xuống 268,2 kg năm 1980. Năm 1979, Việt Nam phải nhập khẩu 1.274.000 tấn lương thực nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân1. Nạn đói diễn ra nhiều nơi, vấn đề công ăn việc làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối. Tình hình trên đã đẩy Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

 Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Đảng phải tìm đường lối đổi mới, khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và xuất phát từ thực tiễn đất nước, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương 6, khóa IV từ ngày 15 đến 23-8-1979.

2. Theo dự kiến của Bộ Chính trị, Hội nghị tập trung bàn về vấn đề sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển công nghiệp địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thảo luận, đã nổi lên vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, đặt ra cho Hội nghị phải tìm ra những biện pháp cấp bách để xoay chuyển tình thế nhằm tháo gỡ những cơ chế đang kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói chung.

Sau khi thảo luận, Hội nghị thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 20-9-1979 “về tình hình và nhiệm vụ cấp bách” và Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20-9-1979 “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”.

Đánh giá về thực hiện Nghị quyết Đại IV của Đảng, Hội nghị chỉ ra rằng, những mục tiêu và kế hoạch của Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) không thực hiện được do nhiều nguyên nhân, đó là: thiên tai xảy ra liên tiếp, sự hỗ trợ về kinh tế của Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN giảm, các thế lực phản động trong và ngoài nước tăng cường chống phá, lôi kéo, kích động người dân; đặc biệt là do sự chủ quan, nóng vội, đề ra chỉ tiêu quá cao về quy mô và nhịp độ tăng trưởng. Hội nghị chỉ rõ: “trong việc vận dụng đường lối, đã có những sai lầm, thiếu sót về kế hoạch hóa, xây dựng chính sách cụ thể, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và tổ chức thực hiện”2. Tình hình này đã tác động tiêu cực tới tâm lý xã hội: “Gần đây phát sinh tâm lý bi quan, xao xuyến, thiếu tin tưởng trong một bộ phận dân cư”3. Nguyên nhân chính của sự duy ý chí đó là do chưa quán triệt đầy đủ những quan điểm về những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong đó “một số chính sách, biện pháp, chỉ tiêu và cách làm có những biểu hiện nóng vội, thiếu căn cứ thực tế”4. “Các chính sách cụ thể có nhiều thiếu sót, chưa phản ánh đúng tình hình nước ta đang trong quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kế hoạch thường không xuất phát từ thực tiễn,… chưa kết hợp được kế hoạch với thị trường. Chính sách cụ thể thì gò bó, cứng nhắc, không khuyến khích sản xuất phát triển,… nhiều chính sách không hợp lý hoặc lạc hậu rồi không được sửa đổi bổ sung kịp thời”5. “Những điều trên đây thấy đã lâu, nói đã nhiều, nhưng sửa chữa quá chậm, quá ít”6. Hội nghị chỉ rõ trong số các nguyên nhân, “thì nguyên nhân bao trùm là lãnh đạo và chỉ đạo”7.

Từ đó, Hội nghị nhấn mạnh phải “xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển công nghiệp địa phương; mở rộng quyền chủ động hợp lý của các ngành, các địa phương và cơ sở (kể cả quốc doanh, tập thể, cá thể) trong sản xuất, kinh doanh nhằm làm cho sản xuất “bung ra” để có nhiều hàng hóa cho xã hội. Kết hợp đúng đắn ba loại lợi ích: Lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích của người sản xuất”8.

Hội nghị xác định một số quan điểm:

Thứ nhất, về chủ trương đối với các thành phần kinh tế

Hội nghị phê phán chủ trương nóng vội muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, phát triển hợp tác xã có quy mô to lớn; phát triển hợp tác xã lên xí nghiệp quốc doanh. Hội nghị xác định: “Phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà xét, cái gì cá thể có thể làm tốt, phục vụ tốt nhu cầu thì nên để cá thể làm, không nhất thiết phải đưa vào tập thể ngay, cái gì tổ sản xuất làm tốt thì để tổ sản xuất làm, không nhất thiết phải tập hợp ngay vào hợp tác xã, cái gì hợp tác xã làm tốt thì không vội phát triển quốc doanh thay thế cái gì địa phương làm được thì giao cho địa phương làm, trung ương không nên nắm giữ, cái gì ngành này đã làm tốt thì không cần thiết phải chuyển sang ngành khác”9. Hội nghị yêu cầu “Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ phải khẩn trương kiểm tra, rút kinh nghiệm, uốn nắn những lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về năm thành phần kinh tế ở miền Nam để tận dụng mọi khả năng về lao động, kỹ thuật, quản lý nhằm phát triển sản xuất. Trong các ngành công nghiệp, nhất là trong công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, thành phần kinh tế quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo, nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước”10; “Phải tận dụng các thành phần kinh tế: Quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể”11; “Các ngành và các tỉnh miền Nam phải tích cực giáo dục, giúp đỡ và mạnh dạn giao việc cho công nhân, viên chức, trí thức mới giải phóng; nghiêm cấm mọi thái độ thành kiến, phân biệt đối xử”12.

Thứ hai, về kết hợp kế hoạch với thị trường

Hội nghị phê phán cách nghĩ và cách làm muốn gò ép tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là yếu tố bất hợp pháp, cần dẹp bỏ càng sớm càng tốt. Hội nghị cho rằng: “Trong một thời gian khá dài, bên cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, còn tồn tại một cách khách quan thị trường ngoài kế hoạch. Về sản xuất, có phần chủ động của xí nghiệp quốc doanh được làm thêm sản phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch Nhà nước, có kinh tế của gia đình nông dân trên đất 5% và các nghề phụ trong nông thôn, có sản xuất của thủ công nghiệp cá thể ở thành phố v.v. thì tất nhiên về lưu thông, cần có thị trường ngoài kế hoạch. Thị trường đó bổ sung cho thị trường có kế hoạch và do thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mô phát triển”13.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ ra những sai lầm trong thực hiện kế hoạch hóa nền kinh tế, bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường, đã gây khó khăn trong sản xuất, lưu thông phân phối và đời sống: “Vừa qua, chúng ta chưa làm tốt công tác kế hoạch hóa, lại không vận dụng tốt thị trường. Kế hoạch hóa tập trung quan liêu, chưa tạo điều kiện cho các ngành, các địa phương, các cơ sở làm kế hoạch. Vận dụng thị trường có nhiều lệch lạc, gò bó, cứng nhắc, thiên về biện pháp hành chính, gây khó khăn cho sản xuất, lưu thông và đời sống”14. Tổng Bí thư yêu cầu: “Chúng ta phải biết quản lý thị trường tự do, chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế, các hình thức kinh doanh mua bán thích hợp, không nên chỉ dùng biện pháp hành chính đơn thuần, như kiểm tra, bắt bớ... Không sử dụng thị trường thì không khuyến khích sản xuất, khuyến khích lưu thông, gây khó khăn cho đời sống”15.

Từ những quan điểm nêu trên, Hội nghị Trung ương 6, khóa IV chủ trương:

Một là, kết hợp kế hoạch với thị trường, khẳng định sự cần thiết tồn tại trường tự do, khuyến khích sản xuất “bung ra” đúng hướng; Hai là, chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được gắn với thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng được liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu của sản xuất và đời sống; Ba là, đối với những hàng hóa và nguyên liệu không thuộc Trung ương thống nhất quản lý, thì “giữa các địa phương được trao đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định giá”16; Bốn là, các xí nghiệp dùng nguyên liệu nông sản được sản xuất trực tiếp quan hệ với nông trường hoặc hợp tác xã nông nghiệp trong việc thu mua nguyên liệu, cung cấp vật tư theo hợp đồng kinh tế hai chiều. Các xí nghiệp dùng nguyên liệu nhập khẩu, được cùng với ngoại thương trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài trong việc nhập nguyên liệu. Bảo đảm quyền tự chủ cho các xí nghiệp, kết hợp 3 lợi ích của Nhà nước, tập thể và người lao động; Năm là, ở miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế: Quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, tư bản tư nhân.

Thứ ba, về chính sách phân phối lưu thông

Hội nghị xác định mục tiêu cao nhất đối với phân phối lưu thông là thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống nhân dân: “Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách lưu thông phân phối là tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân17. Hội nghị nhấn mạnh: “Tinh thần chung của các chính sách lưu thông, phân phối là: thúc đẩy sản xuất bung ra theo đường lối của Đảng và phương hướng của kế hoạch Nhà nước; khuyến khích người lao động sản xuất, bảo đảm cho Nhà nước làm chủ được thị trường, thu mua được nhiều hàng hóa; tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng, bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích. Phải lấy việc phát triển sản xuất làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá tính chính xác của các chính sách18.

Từ đó, Hội nghị chủ trương triển khai một cơ chế phân phối lưu thông tự do hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên những biện pháp hành chính, cưỡng bức: “Để nắm lương thực, không phải dùng hình thức hành chính, kiểm soát, bắt buộc như cách làm vừa qua ở một số nơi, mà phải có chính sách đúng về thuế, về ổn định nghĩa vụ và hợp đồng hai chiều về giá cả, để vừa bảo đảm cho Nhà nước nắm được lương thực, vừa khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất và vui vẻ bán lương thực cho Nhà nước. Phải tính toán lại giá thu mua lương thực, để thật sự bảo đảm cho nông dân làm lương thực được mức lãi cao hơn các ngành khác.

Ngoài thuế (10% sản lượng) và mua theo hợp đồng hai chiều, Nhà nước dùng giá thỏa thuận đi đôi với động viên chính trị để mua phần lương thực hàng hóa còn lại. Giá thỏa thuận là giá nông dân đồng ý bán và Nhà nước đồng ý mua, không hoàn toàn theo giá thị trường tự do, nhưng không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo như hiện nay”19.

Về giá cả, Hội nghị giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và các cơ quan hữu quan cụ thể hóa sửa đổi hệ thống giá: “Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước”20; “Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết nhằm phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống, xuất khẩu và tích lũy, tiến tới chấm dứt sớm tình trạng bù lỗ không hợp lý”21.

Thứ tư, về nông nghiệp

 Hội nghị cho rằng, cần khuyến khích sản xuất nông nghiệp, ổn định bán nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thỏa thuận và lưu thông tự do, khuyến khích tập thể và gia đình xã viên khai hoang, phục hóa, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ. Về tổ chức sản xuất, Hội nghị nhấn mạnh: “Tổ chức nông dân vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Ở những nơi chưa tổ chức nông dân sản xuất tập thể, phải chuẩn bị kỹ các điều kiện cần thiết, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý ở cơ sở, đưa nông dân từ những hình thức vần công, đổi công, tổ đoàn kết sản xuất lên hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã; chống tư tưởng chủ quan, nóng vội, cưỡng ép mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân”22.

Để triển khai thực hiện hiệu quả những chủ trương trên, Hội nghị yêu cầu các cấp, các ban, ngành phải quán triệt sâu sắc chủ trương mới của Đảng, nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tổ chức, quản lý; thực hiện, sửa đổi những chính sách, những biện pháp trái với tinh thần của Nghị quyết: “Các ban, Ban Cán sự, các Đảng đoàn báo cáo ngay để Ban Bí thư biết… Trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình, các ban, Đảng đoàn, bộ, tổng cục đã có những quyết định gì hoặc những dự kiến gì về việc sửa đổi ngay những chính sách, quy định cụ thể không hợp lý, đang gây trở ngại cho việc khuyến khích sản xuất, thúc đẩy tinh thần hăng hái lao động và công tác của cán bộ, nhân viên và nhân dân”23.

3. Hội nghị Trung ương 6, khóa IV là một dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho tư duy đổi mới toàn diện về kinh tế, đánh dấu sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức lý luận của Đảng về kinh tế, chuyển từ tư duy cứng nhắc, giáo điều theo mô hình kế hoạch hóa tập trung sang tư duy linh hoạt, thực tiễn hơn, dần tiếp cận với cơ chế thị trường “cởi trói”, “làm cho sản xuất bung ra”. Đó là những tư duy đổi mới kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới toàn diện sau này.

 Những tư duy mới về kinh tế của HNTƯ 6, khóa IV là sự khẳng định cần phải giải phóng sức sản xuất, tạo ra động lực đối với người lao động - đó là lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động. Sau HNTƯ 6, khóa IV, Ban Bí thư Trung ương ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 “cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp”; Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP, ngày 21-1-1981 “về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh” và Quyết định số 26 - CP, ngày 21-1-1981 “về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của nhà nước”. Những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đã tạo “cú hích” trong sản xuất, góp phần giải phóng năng lực sản xuất của người dân. Những đổi mới về tư duy kinh tế này tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho các quyết sách đổi mới mạnh mẽ về sau.

 Hội nghị Trung ương 6, khóa IV (8-1979) là sự kiện quan trọng, đánh dấu sự thay đổi tư duy kinh tế của Đảng. Tuy chưa đưa ra những giải pháp toàn diện, nhưng Hội nghị đã thể hiện tư duy đổi mới,  nhìn thẳng vào thực tế, dũng cảm thay đổi để phù hợp với yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Những quyết định của Hội nghị là bước đột phá đầu tiên trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho đường lối đổi mới sâu rộng về sau, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực.

 

Ngày nhận bài: 2-10-2025; ngày đánh giá, thẩm định: 19-10-2025 ; ngày duyệt đăng 31-10-2025

1. Lê Phương Thảo, Doãn Hùng: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội năm 2011, tr.247.

2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, T. 40, tr. 334-335, 334, 336, 227, 334, 228, 265, 276-277, 366, 381, 368, 310, 342-343, 343-344, 272, 369, 344-345, 349-350, 362, 272, 363-364, 404-405.