Tóm tắt: Từ năm 1965, chính quyền Mỹ quyết định leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam: tăng cường ném bom miền Bắc, đưa quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời đề nghị Việt Nam thương lượng. Dư luận trong nước Mỹ và quốc tế mặc dù phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, song cũng có nhiều ý kiến khuyên Việt Nam nên đồng ý đàm với Mỹ. Bài viết dựng lại quá trình đấu tranh ngoại giao của Việt Nam chống lại ý đồ thương lượng trên thế mạnh của Mỹ từ khi Mỹ bắt đầu leo thang chiến tranh, đầu năm 1965, cho đến trước khi Đảng quyết định mở mặt trận ngoại giao, chuẩn bị cho giai đoạn vừa đánh vừa đàm.
Từ khóa: Đấu tranh ngoại giao; Việt Nam; đế quốc Mỹ; 1965-1966
1. Mỹ đưa quân trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam, ném bom, bắn phá miền Bắc và tuyên bố sẵn sàng thương lượng
Sau khi nhóm tướng lĩnh Sài Gòn tiến hành đảo chính giết Ngô Đình Diệm, ngày 2-11-1963, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam luôn bị xáo trộn bởi các cuộc đảo chính quân sự, thay đổi chính phủ. Đến đầu năm 1965, quân đội Sài Gòn ngày càng rệu rã, suy yếu, trong khi đó, lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ngày càng mạnh, kiểm soát được các địa bàn chiến lược quan trọng. Hệ thống ấp chiến lược được Mỹ coi là xương sống của chiến tranh đặc biệt đã bị tan rã tới 4/5, phần lớn nhân dân và đất đai ở nông thôn đã thuộc về vùng giải phóng. Phong trào quần chúng ở đô thị vùng lên mạnh mẽ với một khí thế tiền khởi nghĩa. Các tầng lớp trung gian ngày càng ngả về xu hướng hòa bình trung lập1.
Cũng chỉ 20 ngày sau đó, Tổng thống Mỹ F. Kennedy bị ám sát. Tổng thống mới là L. Johnson sớm thấy nước Mỹ có thể “mất Việt Nam” nếu Mỹ không tăng cường vai trò của mình nên tiến hành một loạt các hoạt động leo thang, trực tiếp can thiệp quân sự vào Việt Nam. Ngày 21-2-1964, phát biểu tại Đại học California, Los Angeles, L. Johnson cảnh báo rằng những người “tham gia từ các hướng và cung cấp từ bên ngoài” vào cho MTDTGP MNVN là “đang chơi một trò chơi cực kỳ nguy hiểm”2. Cũng trong tháng 2-1964, các hoạt động chống miền Bắc như dùng biệt kích xâm nhập, phá hoại; dùng tàu chiến bắn phá các kho tàng dọc bờ biển được Mỹ tăng cường. Tháng 6-1964, Mỹ công bố phái 5.000 cố vấn quân sự đến miền Nam Việt Nam. Đầu tháng 8-1964, máy bay Mỹ do các phi công Thái Lan điều khiển, bắn phá miền Bắc3, đồng thời, Quốc hội Mỹ ra Nghị quyết trao quyền cho Tổng thống được thực hiện các biện pháp cần thiết để đẩy lùi mọi cuộc tấn công vũ trang chống lại các lực lượng của Mỹ, ngăn chặn sự xâm lược và hỗ trợ bất kỳ thành viên nào của Hiệp ước Phòng thủ tập thể Đông Nam Á. Ngày 7-2-1965, không quân Mỹ thực hiện chiến dịch Phi tiêu Lửa (Flaming Dart) để trả đũa việc căn cứ Mỹ bị tấn công ở Pleiku. Ngày 2-3-1965, chiến dịch Sấm Rền (Rolling Thunder) - một chiến dịch không quân dài ngày nhất trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ bắt đầu. Trong 3 năm 9 tháng, các máy bay của không quân, hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ đã oanh kích các tuyến đường, doanh trại quân đội, trạm ra đa, khu vực kho xăng dầu, sân bay và các sở chỉ huy quân sự với ba mục đích: buộc miền Bắc phải chấm dứt ủng hộ MTDTGPMNVN và đàm phán; cắt đứt dòng người và phương tiện vào chiến trường miền Nam Việt Nam; xốc lại tinh thần của quân đội Sài Gòn4.
Ngày 3-8-1965, 3.500 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Công khai đưa quân đội vào Việt Nam, Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh lên một mức độ cao về tính chất: Mỹ chính thức xâm lược Việt Nam. Thực ra cho tới lúc đó, ở miền Nam Việt Nam, Mỹ đã có 23.000 lính Mỹ, về lý thuyết chỉ làm nhiệm vụ huấn luyện quân đội Sài Gòn5. Ngày 28-7-1965, L.Johnson thông báo rằng số lượng quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam sẽ từ 75.000 lên tới 125.0006.
Đưa quân Mỹ sang tham chiến ở Việt Nam vào lúc tình hình kinh tế và chính trị của nước Mỹ khá ổn định, lại được Quốc hội đồng tình, nên L.Johnson tin rằng Mỹ sẽ nhanh chóng giành thắng lợi trong chiến lược quân sự mới của mình. Mỹ biết Liên Xô và Trung Quốc sẽ không can thiệp như ở Triều Tiên nếu như Mỹ không đưa bộ binh vượt quá vĩ tuyến 17.
Cùng với các hoạt động leo thang quân sự, chính quyền Mỹ triển khai các hoạt động tiến công ngoại giao để đánh lừa dư luận theo các con đường: tuyên bố công khai, vận động ngoại giao và tiếp xúc bí mật qua trung gian.
Tuyên bố công khai được thực hiện qua các phát biểu của Tổng thống và các quan chức cao cấp Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các phát biểu này giải thích lý do Mỹ ném bom miền Bắc, đưa quân vào miền Nam Việt Nam là để thực hiện cam kết bảo vệ miền Nam trước sự xâm lược của miền Bắc; khẳng định tiềm lực quân sự, kinh tế to lớn của Mỹ, quyết tâm của Mỹ trong việc thực hiện mục tiêu của mình. Đặc biệt, dư luận chú ý đến khả năng giải quyết xung đột bằng đàm phán hòa bình mà phía Mỹ đưa ra.
Ngày 25-3-1965, L. Johnson có bài phát biểu trong cuộc họp nội các, tuyên bố rằng “Miền Bắc phải chấm dứt xâm lược. Đó là con đường hòa bình của Đông Nam Á... Tôi sẵn sàng đi bất cứ đâu vào bất kỳ thời gian nào và gặp bất kỳ ai miễn là có hứa hẹn về một nền hòa bình trong danh dự”7.
Ngày 7-4-1965, trong diễn văn tại Đại học Johns Hopkins (thành phố Baltimore, bang Maryland), L. Johnson thừa nhận chiến tranh là bẩn thỉu, tàn bạo, khó khăn và có khoảng 400 người Mỹ đã bỏ mạng trên mảnh đất Việt Nam nóng nực, nhưng lại cho rằng đó là để thực hiện cam kết quốc gia của các Tổng thống Mỹ từ năm 1954, xây dựng và bảo vệ nền độc lập của miền Nam Việt Nam. L. Johnson khẳng định Mỹ “sẵn sàng thảo luận không điều kiện” với các chính phủ liên quan trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho Việt Nam8.
Ngày 17-4-1965, L. Johnson phát biểu tại cuộc họp báo ở bang Texas, khẳng định rằng “Chúng ta vẫn sẵn sàng thảo luận không điều kiện. Chúng ta sẽ áp dụng không điều kiện bất kỳ hình thức nào với bất kỳ chính phủ nào sẵn sàng nói chuyện, hoặc chúng ta không chấp nhận gì cả. Trên cơ sở này, chúng ta sẵn sàng bắt đầu thảo luận vào tuần sau, ngày mai hoặc tối nay”9.
Vận động ngoại giao và tiếp xúc bí mật: Cùng với tuyên bố công khai, Mỹ tiến hành các chiến dịch vận động ngoại giao, đưa ra các công thức “hòa bình” và tiến hành các cuộc tiếp xúc bí mật qua trung gian.
Tháng 5-1965, chính quyền Mỹ tiến hành cuộc vận động “May Flower” (Hoa tháng Năm), tìm cách gửi tới Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) một thông điệp với nội dung chính là thông báo Mỹ sẽ tạm dừng ném bom từ trưa ngày thứ tư, 12-5 cho đến đầu tuần sau để xem có sự giảm bớt đáng kể các hoạt động vũ trang “chống nhân dân và chính phủ miền Nam Việt Nam” hay không. Nhưng đại diện phía Mỹ không thể gặp được đại diện phía VNDCCH vì bị từ chối. Thông điệp của Mỹ tìm cách gửi đến cho Việt Nam cũng bị trả lại.
Từ tháng 8-1965 đến tháng 1-1966, Mỹ tiến hành đợt vận động mật danh “Dự án XYZ”. Đây là đợt tiếp xúc giữa các nhà ngoại giao Mỹ Edmund Gullion, Paul Sturm và Đại diện thương mại VNDCCH tại Paris Mai Văn Bộ. Phía Mỹ đòi chỉ ngừng ném bom miền Bắc nếu VNDCCH chấm dứt xâm nhập vào miền Nam và rút quân về miền Bắc.
Từ ngày 23-12-1965 đến hết tháng 1-1966, Mỹ tiến hành các cuộc tiếp xúc bí mật qua trung gian với phía Việt Nam với mật danh PINTA. Phối hợp với cuộc vận động ngoại giao này, ngày 29-12-1965, Mỹ công bố tài liệu “Thực chất của vấn đề Việt Nam” trong đó nêu lập trường 14 điểm, vẫn đòi “thương lượng không điều kiện” và chỉ rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam “sau khi có hòa bình được bảo đảm”. Mỹ còn cử các nhà ngoại giao có kinh nghiệm đi tới 40 nước, thảo luận với hơn 100 chính phủ, 113 nước có quan hệ và một số nước chưa có quan hệ, lên tiếng ở Liên Hợp quốc để vận động ủng hộ lập trường của Mỹ. Tuy nhiên cuộc tiếp xúc PINTA bị phía Việt Nam cắt đứt do phía Mỹ ném bom trở lại.
Nửa cuối năm 1966, cuộc vận động ngoại giao Marigold (Bông cúc vạn thọ) đã diễn ra. Đây là cuộc tiếp xúc qua I. Lewandowski, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy ban Kiểm soát quốc tế về Việt Nam nhưng cũng không thành do Mỹ lại ném bom miền Bắc.
Cùng với việc xúc tiến Marigold, trong hai ngày 24 và 25-10-1966 tại Manila (Philíppin), hội nghị 7 nước Châu Á Thái Bình Dương do Mỹ chủ trì đã ra bản tuyên bố trong đó nói đến việc rút quân của các bên tham chiến ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 6 tháng sau khi Bắc Việt Nam rút quân.
Tóm lại, các quan điểm của Mỹ đưa ra để giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam là: 1) Mỹ và VNDCCH đàm phán không điều kiện; 2) Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc với điều kiện VNDCCH chấm dứt đưa người và vũ khí vào miền Nam; 3) Hai bên Mỹ và VNDCCH cùng rút quân; 4) Trở lại Hiệp định Giơnevơ (1954) về Đông Dương với vĩ tuyến 17 là ranh giới phi quân sự giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam.
Như vậy, mục đích của Mỹ trong chiến dịch vận động ngoại giao này không phải là để tìm kiếm hòa bình, mà là duy trì chế độ tay sai ở miền Nam, coi miền Nam như một quốc gia riêng biệt và chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
2. Đấu tranh ngoại giao của Việt Nam vạch trần âm mưu của Mỹ trong các “sáng kiến hòa bình”
Phải thấy rằng các hoạt động quân sự và ngoại giao của Mỹ đã có những tác động đối với dư luận trong nước Mỹ và trên thế giới. Năm 1964 đã có hàng nghìn cố vấn quân sự Mỹ ở Việt Nam nhưng tới 2/3 người Mỹ được hỏi vẫn nói họ rất ít quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Một nghiên cứu vào mùa Xuân năm 1966 cho thấy phần lớn người dân Mỹ sẽ làm theo sự lãnh đạo của chính quyền Mỹ trong vấn đề Việt Nam, với xu hướng tăng nếu là chiến tranh và giảm nếu là đàm phán. Đến giữa năm 1966, chắc chắn nhất là vào đầu năm 1967, mới có hiện tượng ngày càng nhiều người Mỹ cho rằng tham gia chiến tranh Việt Nam là một sai lầm của Mỹ10. Dư luận thế giới cũng e ngại Việt Nam không đủ sức chống Mỹ, nên đã cử các phái đoàn đến thuyết phục Việt Nam nhận thăm dò, đàm phán.
Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đối phó trực tiếp với đế quốc Mỹ vừa mạnh về quân sự lại vừa có nhiều mưu kế trong các ngón đòn ngoại giao. Nếu Đảng có một chút nao núng về lập trường, sai lầm về sách lược cũng dẫn đến hậu quả bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Nhận rõ những âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết bác bỏ những cái gọi là “sáng kiến hòa bình” của chính quyền L. Johnson. Cho đến cuối năm 1966, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu nhấn mạnh quyết tâm đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, khẳng định Việt Nam là một nước thống nhất, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới.
Từ ngày 25 đến ngày 28-3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt). Hội nghị nhận định: hiện Mỹ đang bối rối trong những mâu thuẫn giữa hai xu hướng chiến hay hòa, đang cố tìm cách để giữ vững vị trí và lực lượng hòng tạo ra một “thế mạnh” cho những giải pháp tiếp theo, hoặc thương lượng trên một cơ sở có lợi cho chúng, hoặc mở rộng chiến tranh. Mục tiêu trước mắt của Mỹ là buộc VNDCCH phải nhượng bộ nhiều cho chúng và sau này nếu chúng có thua thì cũng chỉ chịu thua ở mức ít nhất. Hội nghị cho rằng, việc Mỹ đưa quân vào miền Nam làm cho cuộc chiến tranh đặc biệt của chúng ở miền Nam phát triển đến mức độ cao, mang đến một số nhân tố của chiến tranh cục bộ, nhưng chưa làm cho tính chất đặc biệt của cuộc chiến tranh thay đổi một cách căn bản. Những đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam đã nêu trong những nghị quyết trước đây về cơ bản vẫn không thay đổi. Trong công tác lãnh đạo tư tưởng, cần xây dựng tư tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai...; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng hoang mang dao động, cầu an, tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi, muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức mình11. Phát biểu tại Hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho rằng: “ngoại giao chỉ thắng lợi khi cách mạng ta thắng lợi... Nhưng để chủ động có thể lúc nào đó vừa đàm (miền Bắc) và vừa đánh (miền Nam)”. “Lúc nào đó” nghĩa là chưa phải lúc này. Vì thế đến tháng 5-1965, trong thư gửi Trung ương Cục miền Nam, Lê Duẩn nhấn mạnh: chúng ta phải đánh mạnh, đánh trúng hơn nữa chứ chưa phải là lúc nói chuyện thương lượng, đàm phán12.
Ngày 22-3-1965, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, MTDTGPMNVN ra tuyên bố 5 điểm. Tinh thần nổi bật của tuyên bố 5 điểm là khẳng định quyết tâm đánh Mỹ xâm lược của nhân dân miền Nam Việt Nam để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Việc giới hạn ở mục tiêu của Mặt trận là thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất đất nước đã làm cho các nước trong khu vực yên tâm và làm tiêu tan nỗi lo sợ bùng nổ chiến tranh lớn do xung đột hai phe. Tuyên bố khẳng định tất cả các cuộc thương lượng lúc này đều vô ích nếu như Mỹ vẫn chưa chịu rút hết quân đội và mọi dụng cụ chiến tranh ra khỏi miền Nam Việt Nam, nếu như các quyền thiêng liêng của nhân dân miền Nam Việt Nam về độc lập và dân chủ còn bị bọn Việt gian bán nước quỳ dâng cho đế quốc Mỹ, nếu như MTDTGPMNVN không có tiếng nói quyết định.
Ngày 8-4-1965, Chính phủ VNDCCH tuyên bố lập trường 4 điểm làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề Việt Nam với những nội dung cơ bản là: Xác nhận những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam: hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Mỹ phải rút quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, đình chỉ hành động chiến tranh đối với miền Bắc; trong lúc chờ đợi thực hiện hòa bình thống nhất đất nước, phải tôn trọng triệt để những điều khoản quân sự của Hiệp định Giơnevơ: Hai miền không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ quân sự, quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài; công việc của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết, theo Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài; việc thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân hai miền tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài13.
Lập trường 4 điểm của Chính phủ VNDCCH chứa đựng những nguyên tắc lớn, những yêu cầu giải pháp căn bản nhất theo chủ trương của Đảng trong suốt quá trình đấu tranh ngoại giao chống Mỹ.
Ngày 10-4-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một lần nữa lập trường của Chính phủ VNDCCH là: kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam... Đế quốc Mỹ phải tôn trọng Hiệp định Giơnevơ, phải rút khỏi miền Nam Việt Nam! Phải chấm dứt ngay những cuộc tiến công vào miền Bắc. Đó là biện pháp duy nhất để giải quyết vấn đề chiến tranh ở Việt Nam, để thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954, để bảo vệ hòa bình ở các nước ở Đông Dương và Đông Nam Á. Không có giải pháp nào khác14.
Từ tháng 7-1965, Bộ Chính trị bắt đầu nghiên cứu các khả năng đàm phán với Mỹ. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 7-8-1965, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nêu lên một kế hoạch ba bước đấu tranh ngoại giao: 1) Việt Nam với Mỹ thăm dò; 2) Miền Bắc với Mỹ ngồi nói chuyện, miền Nam cứ đánh; 3) Mỹ phải nói chuyện với cả miền Bắc, miền Nam.
Bước một đã được thực hiện khi Mỹ mở cuộc vận động ngoại giao “Dự án XYZ”. Nhưng qua hai cuộc tiếp xúc với đại diện của Mỹ, như đã trình bày ở trên, Việt Nam thấy quyết tâm xâm lược của Mỹ vẫn chưa thay đổi, Mỹ đòi chỉ ngừng ném bom miền Bắc nếu miền Bắc chấm dứt xâm nhập vào miền Nam và rút quân. Đây cũng là thời điểm Mỹ đang triển khai cuộc phản công chiến lược thứ nhất, mùa khô năm 1965-1966 và muốn ngụy trang các hoạt động quân sự bằng những cuộc tiếp xúc trên.
Tại HNTƯ 12 khóa III (12-1965), Đảng vẫn nhận định: lúc này chưa có điều kiện chín muồi cho một giải pháp chính trị về vấn đề Việt Nam. Chỉ khi nào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị đè bẹp, những mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ, trung lập của nhân dân miền Nam được bảo đảm thì ta mới có thể thương lượng để giải quyết vấn đề Việt Nam14.
Trong các cuộc trao đổi với các vị khách quốc tế, những người đến Việt Nam hoặc làm nhiệm vụ trung gian do Mỹ ủy thác trong các chiến dịch “hòa bình”, hoặc xuất phát từ thiện chí muốn giải quyết vấn đề Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam luôn vạch rõ âm mưu và thủ đoạn của Mỹ, khẳng định lập trường của Việt Nam đồng thời nêu rõ quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Có thể kể đến các cuộc trao đổi với Bộ trưởng Kwesi Armah, Cao uỷ Ghana tại London (27-7-1965)15; Giáo sư Luật người Ý Gi. La Pira (11-11-1965); Thứ trưởng kiêm Tổng Thư ký Bộ Ngoại giao Balan Jerzy Michalowski (6-1-1966); nhà ngoại giao Canada Chester Ronning (10-3-1966); nguyên Bộ trưởng Cựu chiến binh Pháp Jean Sainteny (ngày 4, 5-7-1966)... Trong các cuộc trao đổi, nói chuyện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các vị khách đã “không hiểu về Mỹ”, “đã lấy lòng người quân tử để xét đoán bụng dạ của kẻ tiểu nhân”, “Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì cứ việc rút ra như thế ấy. Chúng tôi sẵn sàng hoan tống họ”16. Về vấn đề thương lượng mà Mỹ đưa ra trong buổi tiếp Jerzy Michalowski, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lúc này “chưa phải lúc thăm dò thương lượng. Điều kiện chưa chín muồi” và “bọn cướp chưa yếu lắm. Nó còn có súng lục trong tay. Thời cơ chưa tới”17. Cũng trong buổi tiếp Michalowski, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vạch rõ thực chất ý đồ của Mỹ là chưa sẵn sàng đi vào con đường hòa bình theo yêu cầu của Chính phủ VNDCCH. Mỹ chưa bao giờ tuyên bố chấp nhận 4 điểm của Chính phủ VNDCCH, không thừa nhận MTDTGPMNVN như một thực thể chính trị.
Trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản Tuyên bố của tám nhà khoa học được giải thưởng Nobel, về đề xuất của Giáo hoàng Paul VI vào những ngày cuối năm 1965 đều khẳng định lập trường như trên và lên án Mỹ chỉ “muốn chiến tranh chứ không muốn hòa bình” và việc “nói chuyện không điều kiện” là “thủ đoạn nhằm che đậy” các kế hoạch tăng cường và mở rộng chiến tranh hơn nữa của Mỹ18.
Ngày 24-1-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới các vị đứng đầu 60 nước trên thế giới giải thích rõ lập trường 4 điểm của Chính phủ VNDCCH, tố cáo những luận điệu giả dối của chính quyền L. Johnson, kêu gọi các chính phủ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới hãy “kiên quyết chặn tay bọn tội phạm chiến tranh Mỹ... lên án những thủ đoạn hòa bình giả hiệu của chính phủ Mỹ và kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu thâm độc mới của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương”; yêu cầu Chính phủ Mỹ phải công nhận lập trường 4 điểm của Chính phủ VNDCCH và “chứng tỏ điều đó bằng việc làm thực sự; phải chấm dứt vĩnh viễn và vô điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy thì mới có thể tính đến một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam”19. Nhưng thông qua Canada, Mỹ không chấp nhận chấm dứt vĩnh viễn việc ném bom miền Bắc Việt Nam để đi đến đàm phán, mà chỉ sẵn sàng thương lượng trên cơ sở hai bên cùng giảm chiến sự ở Việt Nam mà việc chấm dứt ném bom sẽ là một yếu tố trong sự giảm bớt đó. Rõ ràng là Mỹ chưa muốn chấm dứt ném bom miền Bắc. Quyết tâm đòi đàm phán trên thế mạnh của Mỹ chưa bị lung lay. Đến ngày 5-7-1966, trong buổi tiếp Jean Sainteny, Hồ Chí Minh nói: “Chỉ có một cách đi tới một giải pháp đó là Mỹ rút đi. Chúng tôi không muốn làm cái gì xấu đối với họ”20.
Để động viên đồng bào cả nước và tiếp tục khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam trước thế giới, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, có đoạn nêu về giải pháp cho vấn đề Việt Nam: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi Việt Nam thì hòa bình sẽ trở lại ngay lập tức. Lập trường của Việt Nam đã rõ ràng: đó là 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 5 điều của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, không có cách nào khác 21.
Như vậy có thể thấy rằng, ngay từ khi leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã tiến hành luôn các cuộc vận động ngoại giao, tiến công “hòa bình” để vừa đánh lừa dư luận, vừa tìm cách thương lượng trên thế mạnh đối với VNDCCH. Dù hòa bình là nguyện vọng của toàn thể dân tộc, nhưng trước trách nhiệm nặng nề đối với đất nước, Đảng phải lựa chọn thời điểm thích hợp mới có thể đàm phán với Mỹ. Không phải là không có cơ hội hòa bình nhưng chính sách vừa thăm dò, vừa ném bom của Mỹ làm cho VNDCCH không thể chấp nhận và thấy rằng quyết tâm xâm lược của Mỹ còn cao, Mỹ chưa thực sự muốn đàm phán. Nếu chấp nhận thương lượng dễ dàng, Mỹ sẽ ép VNDCCH thương lượng theo những điều kiện của Mỹ. Nếu không chấp nhận điều kiện của Mỹ, Mỹ sẽ đổ lỗi, đẩy sức ép dư luận về phía VNDCCH, đồng thời vẫn leo thang chiến tranh. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam sẽ càng thêm khó khăn. Vì thế, điều kiện để có thể thương lượng trong thời gian này là chưa chín muồi.
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 8/2020
1, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, T. 26, tr. 96-97, 97-109
2. The United States of America, Congressional Record: Proceedings and Debates of the 90th congress, second session, Volume 114, Part 8, The United States Government Printing Office, Washinton, 1968, p. 10150
3, 6. Johson, Walter. “The U Thant-Stevenson Peace Initiatives in Vietnam, 1964-1965”, Diplomatic History, vol. 1, no. 3, 1977, pp. 285-295; 285-295
4. Tilford, Earl H, “Vietnam: prolonged conflict-protracted war” Journal of Third World Studies, vol. 9, no. 2, 1992, pp. 118-142
5, 17, 18. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pa-ri, Viện Quan hệ quốc tế, H, 1990, tr. 42, 85, 136
7, 8, 9. Historical Office - Bureu of Public Affairs, American Fogeign Policy Current Documents 1965, Department of State Publication 8372, Released April 1968, p. 846-847, 848-852, 857-858
10. Lunch, William L., and Peter W. Sperlich. “American Public Opinion and the War in Vietnam.” The Western Political Quarterly, vol. 32, no. 1, 1979, pp. 21-44
12. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb ST, H, 1985, tr. 111
13. Báo Nhân Dân, ngày 13-4-1965
14. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 14, tr. 533
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1965-1970), Nxb ST, H, 1986, T. 2, tr. 32
16. Về chuyến đi của K. Armah, sách American Fogeign Policy Current Documents 1965 đã chú thích: kết quả Bộ trường Ngoại giao Ganna Alex Quaison-Sackey đã chuyển cho Tổng thống Johnson lá thư của Tổng thống K. Nkrumah, với một trong những đề xuất là Mỹ đình chỉ ném bom để chuyến thăm Hà Nội của ông không gặp nguy hiểm. Đề xuất này bị từ chối vì là đề nghị Mỹ không ném bom
19. Unnited States of America, Congressional Record, Proccedings and debates of the 89th congress second session, Vol. 112 - Part 16, 29-8-1966 to Sept 12,1966, p. 21532
20, 21. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 12, tr. 33, 108-109.