Tóm tắt: Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam từng bước được hình thành, bổ sung, phát triển. Bài viết phân tích, chỉ rõ những đặc trưng của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng; thống nhất giữa kiên định và bổ sung, phát triển; gắn với thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới. Những đặc trưng này gắn bó hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau, cùng nhau tạo nên bản chất của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng.
Từ khóa: Khoa học và cách mạng; đặc trưng; lý luận về đường lối đổi mới; kiên định và bổ sung, phát triển
Đại hội XIII (2021) của Đảng khẳng định: “Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển”1. Vậy hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng có những đặc trưng gì? Từ bản chất của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng-chính là sự đổi mới nhận thức, con đường, biện pháp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới-cho thấy lý luận về đường lối đổi mới của Đảng có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng
Tính khoa học của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng thể hiện ở chỗ, lý luận về đường lối đổi mới là kết quả trí tuệ tập thể của Đảng, nhân dân và dân tộc, phản ánh đúng đắn những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, của thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX. Nói khác đi, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng là kết quả của trí tuệ tập thể của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và luôn được bổ sung, hoàn thiện bằng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Tinh thần này thể hiện rất rõ trong Nghị quyết Đại hội VI (1986) của Đảng: “Tập trung trí tuệ toàn Đảng và toàn dân, Đại hội chúng ta tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo phong phú của các ngành, các cấp và các đơn vị cơ sở, giải quyết một số vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn, phát triển đường lối và nâng cao năng lực chỉ đạo thực hiện của Đảng”2.
Tính khoa học còn thể hiện ở chỗ lý luận về đường lối đổi mới dám nhìn thẳng vào sai lầm, hạn chế trong nhận thức và trong chỉ đạo tổ chức thực hiện để nhận thức lại và tổ chức thực hiện lại cho đúng đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”3 tại Đại hội VI, Đảng đã chỉ rõ trong quá trình xây dựng đất nước, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự giảm sút của sản xuất những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX là do “những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố trí đầu tư và xây dựng cơ bản của 5 năm 1976-1980, đã để lại hậu quả nặng nề”4; “việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót. Do đó, trong mười năm qua, đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”5. Với tinh thần khách quan, khoa học, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng đã nhận thấy rằng chúng ta chưa nhận thức đúng về thời kỳ quá độ lên CNXH, lại chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết trong thời kỳ quá độ; đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về các mặt sản xuất; chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; trong chỉ đạo thực tiễn chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội và bảo thủ nhất là trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và cơ chế quản lý kinh tế6, v.v.. Với tinh thần khách quan, khoa học, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm về chỉ đạo và tổ chức thực hiện”7. Trên cơ sở đó, lý luận về đường lối đổi mới phải ngăn ngừa, khắc phục những hạn chế, nhất là phải khắc phục “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan… tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh vừa “hữu” khuynh”8.
Tính cách mạng của lý luận về đường lối đổi mới thể hiện ở chỗ lý luận chống lại mọi cái bảo thủ, trì trệ, những cái cũ, lạc hậu, dám đổi mới theo hướng tốt đẹp hơn, hiệu quả hơn. Ngay từ khi mới bắt đầu đổi mới lý luận về đường lối đổi mới của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội”9. Quán triệt tinh thần này, trong suốt quá trình đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng luôn hướng tới cái mới hợp quy luật, từng bước hoàn thiện lý luận về đổi mới trên từng mặt của đời sống xã hội. Nhưng điều quan trọng là lý luận về đường lối đổi mới của Đảng luôn hàm chứa sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Bảo đảm tính khoa học làm cho lý luận ấy luôn bao hàm trong nó tính cách mạng, còn tính cách mạng đòi hỏi nó phải có tính khoa học. Nói khác đi, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng luôn có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Thứ hai, thống nhất giữa kiên định và bổ sung, phát triển sáng tạo
Chính vì có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng mà lý luận về đường lối đổi mới của Đảng có đặc trưng thống nhất giữa kiên định và bổ sung, phát triển sáng tạo. Kiên định là vững vàng, không dao động, không thay đổi lập trường, không nhụt chí10, không nản lòng, vững tin có căn cứ, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Từ đây cho thấy, kiên định đường lối đổi mới là vững vàng, không dao động, không thay đổi lập trường, không nhụt chí, không nản lòng, vững tin có căn cứ, có cơ sở khoa học và thực tiễn vào đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ, cố chấp mà trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về bản chất khoa học, cách mạng của lý luận về đường lối của Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà trong quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới, tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng chỉ ra một trong bốn quan điểm cơ bản, đó là “kiên định đường lối đổi mới của Đảng”11.
Bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về đường lối đổi mới nghĩa là cần phải dựa trên cơ sở kiên định mục tiêu, đường lối đổi mới để bổ sung, phát triển sáng tạo những luận điểm cụ thể của đường lối đổi mới hoặc toàn bộ lý luận về đường lối đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Lý luận về đường lối đổi mới ban đầu chỉ tập trung đổi mới về tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ, sau đó tiến hành đổi mới toàn diện các mặt. Đại hội VII (1991) của Đảng nhận định: “Với tinh thần độc lập sáng tạo, Đảng đã cụ thể hóa nghị quyết Đại hội VI, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta”12. Đồng thời, Đại hội VII của Đảng rút ra kinh nghiệm quan trọng:“đổi mới phải toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”13. Nghĩa là sau 5 năm thực hiện lý luận về đường lối đổi mới, Đảng đã chuyển từ đổi mới tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ sang đổi mới toàn diện đất nước. Đây là bước bổ sung, phát triển quan trọng của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng. Chính vì vậy, nhận thức và thực tiễn xây dựng CNXH đã được đổi mới toàn diện từ bản chất, đặc trưng, phương hướng xây dựng CNXH đến nhận thức về thời kỳ quá độ “bỏ qua phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa”, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, các mối quan hệ lớn cần giải quyết,v.v..
Trong tất cả các nội dung của lý luận về đường lối đối mới của Đảng luôn dựa trên cơ sở kiên định những thành tựu đã đạt được và bổ sung, phát triển lý luận về đường lối đổi mới của Đảng. Chính vì vậy, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng một mặt vừa kiên định những nguyên tắc, những thành tựu đã đạt được, vừa bổ sung, phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Có điều này là bởi lẽ, giữa kiện định và bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về đường lối đổi mới của Đảng có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Kiên định là cơ sở để bổ sung, phát triển sáng tạo đúng đắn. Nếu kiên định nhưng không bổ sung, phát triển sáng tạo đúng đắn sẽ rơi vào bảo thủ, sơ cứng, cứng nhắc, trì trệ, giáo điều. Ngược lại, bổ sung, phát triển sáng tạo đúng đắn đòi hỏi phải kiên định, nếu không dễ trở thành xét lại, cơ hội.
Ba là, gắn với thực tiễn Việt Nam cũng như thực tiễn khu vực và thế giới
Lý luận về đường lối đổi mới của Đảng luôn gắn với thực tiễn Việt Nam cũng như thực tiễn khu vực và thời đại được thể hiện ở chỗ, Đảng thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút những bài học để bảo đảm lý luận về đường lối đổi mới luôn bám sát thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới, luôn được bổ sung, phát triển. Chính vì gắn với thực tiễn Việt Nam, thực tiễn khu vực và thế giới mà lý luận về đường lối đổi mới của Đảng không rơi vào giáo điều, sách vở.
Tổng kết 5 năm (1986-1991) thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra, Đại hội VII của Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm quý báu. Một trong những bài học kinh nghiệm đó là: “giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới”14. Đảng khẳng định đi lên CNXH là con đường tất yếu của Việt Nam, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thời đại. Lý luận về đường lối đổi mới phê phán những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng CNXH nhưng không quan niệm những sai lầm đó “là khuyết tật của bản thân chế độ”, không “coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi, biện pháp thích hợp”15. Những kết luận được đúc rút từ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn vô cùng quan trọng, giúp Đảng kiên định lý luận về đường lối đổi mới: “phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo trong việc đề ra đường lối đổi mới phù hợp với đặc điểm, tình hình nước ta, đáp ứng đúng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân ta”16. Đây là quan điểm rất quan trọng, bởi lẽ độc lập và sáng tạo nhưng phải phù hợp với đặc điểm, tình hình đất nước, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nếu độc lập mà không phù hợp thực tiễn đất nước sẽ dẫn tới xét lại, sáng tạo mà không phù hợp thực tiễn đất nước sẽ là giáo điều. Cả xét lại và giáo điều đều sẽ gây ra thất bại. Thực tế cho thấy lý luận về đường lối đổi mới của Đảng không rơi vào xét lại, giáo điều, rập khuôn các nước khác. Ở Trung Quốc xây dựng kinh tế thị trường XHCN, thì ở Việt Nam là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không giống với bất cứ mô hình kinh tế thị trường nào đã tồn tại trên thế giới. Nó là kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp thu tinh hoa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nếu các nước phương Tây xây dựng xã hội hiện đại theo mô hình kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, thì Đảng xây dựng mô hình CNXH gồm các trụ cột kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN và nền dân chủ XHCN. Nghĩa là, các trụ cột của CNXH đều mang nét riêng của Việt Nam, gắn bó, phản ánh thực tiễn Việt Nam nhưng không dị biệt so với thế giới. Ngoài ra, chúng ta còn chú ý phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội mà ở đó chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ đạo.
Xuất phát từ bài học kinh nghiệm cải tổ của Liên Xô - đổi mới chính trị không có sự hậu thuẫn của kinh tế, Đảng đã nhận thức, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Khi bắt đầu đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Đảng nhấn mạnh: “phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống việc làm và những nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị,..”17. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng được Đại hội VIII (1996) của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”18. Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng, phù hợp với thực tiễn đất nước cũng như nhu cầu, nguyện vọng của đại đa số nhân dân lao động. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006) của Đảng. Đại hội XI (2011) của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”19. Đại hội XII (2016) của Đảng đánh giá: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”20, trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”21. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu….22 Những hạn chế từ thực tiễn đòi hỏi lý luận về đường lối đổi mới kinh tế và chính trị phải được nâng lên một tầm cao mới, đó là phải đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế và thể chế chính trị.
Đại hội XIII (2021) của Đảng trên cơ sở đánh giá những thành tựu của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong nhiệm kỳ Đại hội XII và xuất phát từ yêu cầu mới, đã xác định cần đưa quan hệ giữa đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế với thể chế chính trị lên một bước mới. Đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”23. Đây là một điểm mới so với Đại hội XII và các đại hội của Đảng trước đó.
Tổng kết 10 năm (1986-1996) thực hiện lý luận về đường lối đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã đánh giá rất chính xác trong quá trình đổi mới, đặc biệt là vào những thời điểm có tính bước ngoặt, xuất phát từ thực tiễn, Đảng đã có những quyết sách quan trọng. Đó là những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTƯ 6 khóa VI (3-1989) của Đảng đã khẳng định; sự bác bỏ kiên quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI với những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất hiện; việc thông qua Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Điều lệ Đảng sửa đổi tại Đại hội VII của Đảng, Hiến pháp năm 1992,v.v.. Chính những quyết định đúng đắn này làm cho lý luận về đường lối đổi mới của Đảng gắn với thực tiễn đất nước và đáp ứng yêu cầu thực tiễn24.
Đại hội IX của Đảng khẳng định qua 15 năm (1986-2001) đổi mới, những bài học do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt là bài học: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với tiễn, luôn luôn sáng tạo”25. Đại hội X (2006) của Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm quý cho công cuộc đổi mới tiếp theo, trong đó có bài học: “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”26. Nghĩa là, Đảng tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới phát xuất phát từ thực tiễn, gồm cả thực tiễn Việt Nam, khu vực và thế giới. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI (2011) của Đảng nhấn mạnh bài học: “Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới”27. Đồng thời, trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng chỉ rõ: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”28.
Tổng kết 30 năm (1986-2016) đổi mới, Đại hội XII của Đảng rút ra 5 bài học quý, trong đó có bài học: “đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra”29. Đại hội XIII (2021) của Đảng tiếp tục rút ra 5 bài học, trong đó có những yêu cầu mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận30. Trong nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại”31. Trong các đường lối cụ thể, Đảng luôn gắn với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Chẳng hạn như trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng chủ trương: “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế”32; “Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”33; “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”34; v.v..
Những đặc trưng thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng, thống nhất giữa kiên định và bổ sung, phát triển, gắn với thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới trong lý luận về đường lối đổi mới của Đảng gắn bó hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau, cùng nhau tạo nên bản chất của lý luận về đường lối đổi mới của Đảng. Bởi lẽ, khoa học và cách mạng luôn đòi hỏi phải kiên định và bổ sung, phát triển sáng tạo. Bổ sung, phát triển sáng tạo phải gắn với thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới nếu không sẽ rơi vào xét lại hoặc giáo điều. Ngược lại, để gắn bó với thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới đòi hỏi phải luôn giữ được bản chất khoa học và cách mạng; đồng thời vừa phải kiên định và bổ sung, phát triển sáng tạo.
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 5/2022
1, 11, 23, 30, 31, 32, 33, 34. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 74, 109, 114, 96-97, 180, 115, 115, 117
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 374, 346, 347, 353, 353-354, 360, 360, 363
10. Xem: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, H, 1998, tr. 938
12, 13, 14, 15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 76-77, 84, 82-83, 83, 83, 83-84
18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H, 2015, T. 55, tr. 312
19, 27, 28. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H, 2011, tr. 99-100, 22, 66
20, 21, 22, 23, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 65, 68, 173-174, 114, 69
24. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.69-70
25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 19
26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.71.