Tóm tắt: Quá trình xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đọn 1986-2025 được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Qua đó, giai cấp nông dân không ngừng được củng cố vững chắc, tiếp tục liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới. Quá trình đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý.
Từ khóa: Giai cấp nông dân; bài học kinh nghiệm; 1986-2025
Trong công cuộc đổi mới, GCND không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt, là lực lượng quan trọng của khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn đã có sự chuyển dịch lớn. Tỷ lệ nông dân giảm trong tổng số dân và trong cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư. Theo số liệu thống kê năm 1989, cả nước hơn 64,3 triệu người, trong đó có hơn 51 triệu người sống ở nông thôn, trong số đó có 20 triệu người từ 16 tuổi trở lên sống ở nông thôn1. Hiện nay, nông dân chiếm hơn 1/3 dân số cả nước, chiếm 49,17% số hộ ở nông thôn với hơn 9,1 triệu hộ nông dân2. Trải qua gần 40 năm xây dựng và trưởng thành của GCND đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có thể tham khảo để tiếp tục xây dựng giai cấp nông dân trong những năm tiếp theo.
Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về vai trò, vị trí của giai cấp nông dân và kiên trì địa vị nền tảng của nông nghiệp
Nhận thức rõ vai trò của GCND, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược lâu dài của giai cấp nông dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn nói riêng. Đó là: Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và các quyết định triển khai thực hiện của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như: Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 1670/QĐ-TTg, ngày 31-10-2017 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước luôn xuất phát từ quyền lợi của giai cấp nông dân và nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Qua đó đã mang lại kết quả to lớn đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam. Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao. Nông nghiệp đã khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, về đích sớm hơn so với mục tiêu đề ra. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng; diện mạo nông thôn Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ngày càng được củng cố, nâng cao.
Sự phát triển của nông nghiệp đã và đang góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân. GCND không chỉ giữ vai trò trung tâm, quyết định đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, mà còn quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước. Điều đó cho thấy vị trí, vai trò chủ thể của giai cấp nông.
Về vị trí chính trị, GCND Việt Nam liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong đó, GCND là chủ thể trực tiếp hiện thực hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn. GCND là lực lượng đi đầu trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đảng, Nhà nước phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì và thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”3.
Về vị trí kinh tế, GCND Việt Nam là chủ thể của ngành sản xuất nông nghiệp và có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của toàn xã hội. Quá trình thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Phần lớn lương thực, thực phẩm tiêu dùng trong nước do nông dân sản xuất. Kinh tế nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; hình thành mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; góp phần không nhỏ vào hoạt động xuất khẩu nông sản, tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Với tư cách là lực lượng lao động chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, vai trò chủ thể của giai cấp nông dân được thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xây dựng và hưởng thụ cuộc sống văn minh, hạnh phúc ở nông thôn. GCND là chủ thể phát triển nền nông nghiệp hiện đại, chất lượng, hiệu quả cao và xây dựng nông thôn mới; là chủ thể xây dựng, bảo vệ và phát huy các giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội tốt đẹp đặc trưng của nông thôn Việt Nam.
Phát huy vai trò nòng cốt của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn kết cộng đồng nông thôn. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, năng suất bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống; đồng thời, chủ động tham gia đóng góp vào các nỗ lực đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, phù hợp với khả năng và điều kiện của Việt Nam. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trình độ và năng lực làm chủ của người dân, để nông dân và người dân nông thôn thực sự là trung tâm, chủ thể, động lực, mục tiêu của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Không ngừng nâng cao vị thế làm chủ của người dân trong công cuộc đổi mới.
Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, ở nông thôn đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị, làm cho văn hoá làng quê có những sắc thái mới trong đời sống, sinh hoạt tinh thần của người nông dân và cộng đồng làng xã. Văn hoá đô thị đã lan toả về nông thôn với các sản phẩm văn hóa, loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị; sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ... đã làm cho diện mạo nông thôn và đời sống tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Nhiều loại hình, giá trị văn hoá ở nông thôn cũng được giới thiệu rộng rãi, thuận lợi hơn ở các đô thị. Mức sống văn hóa, trình độ hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của nông dân các vùng đô thị hóa được nâng lên. Phát huy vai trò của GCND trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần thực hiện hiệu quả các cuộc vận động, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Xây dựng một cách thực chất và bền vững các làng, xã, bản văn hoá gắn với xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, nhân văn, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì vậy, cần tiếp tục nâng cao vị thế chủ thể của nông dân trong nhận thức của hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm phát huy hơn nữa vai trò chủ thể của GCND trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, đặc biệt là trong xây dựng nông thôn mới để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Vai trò chủ thể của người nông dân thể hiện ở chỗ, nông dân phải được tham gia ý kiến vào quá trình hoạch định các cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn; vào quá trình quy hoạch đô thị và khu công nghiệp cũng như trong chương trình đền bù, giải tỏa đất nông nghiệp và trong hoạt động của chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội liên quan đến lợi ích của người nông dân.
Nâng cao vai trò chủ thể của nông dân trong chiến lược phát triển nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn văn minh; tăng cường địa vị nền tảng của nông nghiệp; coi trọng giải quyết vấn đề “tam nông” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng. Coi trọng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đặt phát triển sản xuất lương thực vào vị trí hàng đầu trong xây dựng nông nghiệp hiện đại; xác định rõ và thực hiện mục tiêu phát triển lương thực; phát triển kinh doanh ngành nghề hóa nông nghiệp, nhất là ngành nghề chế biến nông sản; tăng cường việc chuẩn hóa nông nghiệp và an toàn chất lượng nông sản; phát triển nông nghiệp sinh thái theo, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 19/NQ/TW “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” nhằm nâng cao toàn diện đời sống của GCND và người dân nông thôn.
Hai là, phát huy dân chủ của nông dân chăm lo, bảo vệ quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của giai cấp nông dân
Lợi ích của GCND được biểu hiện cụ thể ở đời sống vật chất và tinh thần. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng, của giai cấp nông dân. Nông dân là điểm xuất phát của việc đề ra chính sách, đồng thời cũng là đích đến hiệu quả của chính sách.
Về kinh tế, cần quan tâm đầy đủ tới lợi ích vật chất của nông dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu địa phương cần quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của GCND. Phải lấy xây dựng kinh tế nông thôn làm trung tâm và mục tiêu, kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề thực tế của nông dân và nông thôn; không ngừng nâng cao mức sống của người dân. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của nông dân trong sản xuất nông nghiệp, tạo động lực, ý chí, niềm tin phấn đấu vươn lên trong lao động sản xuất, kinh doanh và xây dựng nông thôn mới.
Trong công cuộc đổi mới, cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, cải thiện, nâng cao đời sống nông dân, Đảng và Nhà nước đã đẩy mạnh phát huy vai trò của nông dân trong xây dựng đời sống tinh thần, đặc biệt là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Nông thôn là địa bàn rộng lớn và nông dân là chủ thể sản sinh, nuôi dưỡng và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc qua nhiều thế hệ. Chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng đang phát huy hiệu quả trong việc xây dựng và phát triển văn hóa ở các vùng nông thôn; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng gia đình văn hóa, tổ thôn, ấp, bản, làng văn hóa.
Về chính trị, bảo đảm thiết thực quyền lợi dân chủ của nông dân. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của GCND, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, trăn trở của người dân; giải quyết hợp tình, hợp lý những thắc mắc, mong muốn; không gây khó khăn cho người dân trong tiếp cận thông tin. Trong xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn cần quan tâm thực hiện quyền dân chủ kinh tế của nông dân. Để thực hiện điều đó, cần đổi mới việc tập hợp ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nông dân theo hướng đi sâu, đi sát, khơi dậy ý thức làm chủ của nông dân; tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp, các hình thức diễn đàn, tiếp xúc có tổ chức để lắng nghe ý kiến của nông dân; chủ động, kịp thời nắm bắt các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới để kiến nghị xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật.
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
Giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Để tạo điều kiện cho nông dân đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và hỗ trợ liên kết doanh nghiệp với nông dân. Đẩy mạnh phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, đa dạng, phù hợp, hiệu quả các hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong các lĩnh vực, ngành hàng, chuỗi sản xuất kinh doanh. Khuyến khích nông dân tham gia vào các hình thức tổ chức sản xuất, như hợp tác xã, tổ hợp tác để tăng cường sức mạnh liên kết và cạnh tranh.
Nhà nước có chính sách đất đai phù hợp, tạo điều kiện cho nông dân tích tụ diện tích ruộng đất để phát triển sản xuất quy mô sản xuất và yên tâm gắn bó lâu dài với sản xuất nông nghiệp. Các cơ quan, tổ chức có liên quan tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh. Nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp tín dụng, hỗ trợ về vốn, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư sản xuất. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân: đẩy mạnh phát triển nguồn vốn quỹ hỗ trợ nông dân các cấp; tích cực vận động tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân ủng hộ phát triển vốn quỹ; tranh thủ vốn ủy thác của Nhà nước, nguồn tài trợ, vốn vay ưu đãi của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để hỗ trợ vốn cho nông dân. Hỗ trợ về khoa học - kỹ thuật: chuyển giao khoa học - kỹ thuật tiên tiến cho nông dân, hỗ trợ nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Hỗ trợ về tiêu thụ nông sản: Xây dựng các kênh tiêu thụ nông sản ổn định, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý. Nhà nước tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận và cập nhật đầy đủ thông tin về thị trường; nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước; phát triển thị trường xuất khẩu nông sản. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ quảng bá và tiêu thụ nông sản, hàng hóa cho nông dân; hỗ trợ kết nối thị trường, tổ chức các hội chợ triển lãm, xúc tiến thương mại, giới thiệu, quảng bá, liên kết với hệ thống siêu thị, chợ đầu mối để tiêu thụ nông sản, hàng hóa cho nông dân; tư vấn, hỗ trợ nông dân xây dựng thương hiệu nông sản, hàng hóa, xây dựng chỉ dẫn địa lý, thiết lập mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, đăng ký, bảo hộ thương hiệu hàng hóa nông sản, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát an toàn thực phẩm.
Tổ chức tốt hoạt động cung ứng thiết bị, vật tư nông nghiệp cho nông dân; thực hiện hiệu quả các hoạt động tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ nông dân đầu tư, áp dụng các thiết bị cơ giới tiên tiến, nhà kính, nhà lưới, chuồng trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hiện đại gắn với các quy trình sản xuất an toàn thực phẩm, tiên tiến, công nghệ cao.
Phát triển đa dạng loại hình nghề nghiệp trên địa bàn khu vực nông thôn thông qua các chương trình đào tạo nghề ngắn hạn; giúp đỡ những người đã được đào tạo nghề có thể tự phát triển nghề nghiệp, nâng cao thu nhập và ổn định đời sống. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn, tạo điều kiện để nông dân được học tập, trao đổi kinh nghiệm, tiếp thu chuyển giao công nghệ và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
Tổ chức các lớp dạy nghề, nâng cao trình độ và năng lực ứng dụng khoa học-công nghệ, để đông đảo nông dân có điều kiện tiếp cận, tham gia học tập nâng cao kiến thức và trình độ sản xuất; tiếp cận và làm chủ các công nghệ tiên tiến, nghiên cứu, ứng dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức đào tạo theo hướng tăng cường thực hành gắn với mô hình thực tế, học trực tuyến qua internet, tham quan, học tập và trao đổi kinh nghiệm.
Đẩy mạnh tư vấn, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân bằng nhiều hình thức, phù hợp với đối tượng, vùng, miền; giúp nông dân hiểu đúng, nắm vững pháp luật để tham gia liên doanh, liên kết, hợp tác hiệu quả gắn với bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân; cung cấp thông tin, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp luật về bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm cho nông dân.
Tăng cường liên kết, hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Xây dựng chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất đến tiêu thụ, trong đó thực hiện hài hòa mối liên kết 6 nhà: “nhà nông-Nhà nước- nhà khoa học-nhà doanh nghiệp- nhà ngân hàng - nhà phân phối” trong chuỗi sản xuất nông nghiệp theo tinh thần của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5-7-2018 của Chính phủ “về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”. Trong đó nông dân và doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Khuyến khích nông dân và doanh nghiệp hợp tác sản xuất và tiêu thụ nông sản, nâng cao hiệu quả kinh tế. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận và cập nhật đầy đủ thông tin về thị trường trong nước và ngoài nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của những hàng hóa nông sản mà địa phương có lợi thế.
Bốn là, xây dựng người nông dân phát triển toàn diện
Trong xu thế phát triển của thời đại hiện nay, xây dựng GCND không chỉ phát triển về số lượng, mà quan trọng là tạo cho được sự biến đổi về chất nhằm tăng cường sức mạnh của khối liên minh công - nông- trí.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng 4.0 đã tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế nông nghiệp ở tầm cao mới; đặt ra yêu cầu khách quan mỗi người nông dân nói riêng, cả GCND nói chung phải phát triển lên trình độ mới, cao hơn về chất. Chủ thể trực tiếp của phát triển kinh tế nông nghiệp trình độ cao chính là những người nông dân và GCND. Do vậy, lực lượng nông dân hiện đại, chuyên nghiệp có trình độ cao, được đào tạo nghề một cách bài bản, năng động, sáng tạo sẽ dần thay thế cho các thế hệ nông dân truyền thống. Cần phải thực hiện “trí thức hóa nông dân”, nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp, quản lý sản xuất, kinh doanh... Một trong những chính sách quan trọng của Nhà nước có tác động sâu sắc đến chất lượng GCND, hình thành đội ngũ nông dân văn minh, nông dân chuyên nghiệp trình độ cao chính là Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28-1-2022 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Quyết định nêu rõ: “Đến năm 2030 là giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội xuống dưới 20%, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo đạt trên 70%”; đồng thời, xác định đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 “cơ cấu xã hội giai cấp nông dân Việt Nam chắc chắn sẽ có những biến đổi tích cực theo hướng chất lượng ngày càng được nâng cao, đội ngũ nông dân văn minh, chuyên nghiệp sẽ hình thành và phát triển”4.
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi người nông dân mới phải có trình độ, kiến thức và khoa học - kỹ thuật tiên tiến; phải lành nghề về sản xuất nông nghiệp. Đây là con đường chủ yếu để nâng cao năng lực và vai trò chủ thể của nông dân trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, cần đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức cho người nông dân về quản lý kinh tế, quản trị nông nghiệp, có kiến thức về khoa học - kỹ thuật, văn hóa - xã hội, pháp luật, thị trường và hội nhập quốc tế. Từng bước trí thức hóa GCND, xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, người nông dân cần phải là biết ngoại ngữ, có kỹ năng sử dụng máy móc, tin học và dịch vụ công tốt, hiểu biết về hội nhập quốc tế, phải có sự liên kết hợp tác chặt chẽ, tích cực trong sản xuất, kinh doanh, không chỉ nông dân với nông dân, mà còn với Nhà nước, nhà khoa học, các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân nước ngoài. Người nông dân Việt Nam trong thời đại mới, không chỉ là lực lượng mạnh về kinh tế, mà còn là lực lượng mạnh về chính trị, văn hóa, xã hội, thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, cần phải tập trung xây dựng một lớp nông dân mới, có khoa học - công nghệ, nắm chắc kinh tế số, đổi mới tư duy. Trên cơ sở đó xây dựng và phát triển GCND ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Xây dựng GCND với những tiêu chí mới, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa nông thôn, trong đó chú trọng xây dựng “Người nông dân 5 mới”. Đó là: Nông dân có tư duy mới; Nông dân có nhận thức mới; Nông dân có kiến thức mới; Nông dân có đời sống văn hóa mới; Nông dân có quyết tâm mới. Đồng thời, xây dựng và thực hiện những tiêu chí của “Người nông dân 5 mới”, đó là: Có trình độ, kiến thức, khoa học- kỹ thuật tương ứng; Lành nghề về nông nghiệp; Có kỹ năng sử dụng máy móc, tin học, dịch vụ công; Có thể lực, trí lực; Biết giữ gìn và hưởng thụ văn hóa; Kết hợp bản chất cần cù, sáng tạo; Có ý chí vươn lên, không cam chịu đói nghèo; Biết liên kết, hợp tác trong kinh doanh; Có ý thức bảo vệ môi trường; Có tình cảm tốt đẹp đối với gia đình, xã hội. Đó là những tiêu chí, đức tính cần đạt tới trong giai đoạn cách mạng mới để trở thành người nông dân văn hóa. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân với xây dựng con người mới, trong đó, xây dựng GCND Việt Nam trong thời kỳ mới cần phải tạo cho được sự biến đổi về chất lượng chính trị của nông dân. Phải đào tạo nâng cao nhận thức, trình độ, học vấn, năng lực làm chủ của nông dân và người dân nông thôn. Đây là nhiệm vụ có tính quyết định để nâng cao trình độ, năng lực cho nông dân và người dân nông thôn.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tiếp tục là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong đó, nông dân tiếp tục là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Yêu cầu mới đặt ra GCND cần phải được rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, để trở thành nền tảng cơ sở chính trị - xã hội quan trọng của Đảng, của hệ thống chính trị, thật sự là lực lượng nền tảng góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Vì vậy, cần quan tâm đào tạo nghề cho nông dân, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, nhất là lao động trẻ, đáp ứng yêu cầu của thị trường; đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ; bảo đảm an ninh lương thực; tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Cần đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn; cập nhật nghề, chuẩn hoá nội dung đào tạo, kiểm định chất lượng chương trình đào tạo; tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp, kiến thức về an toàn vệ sinh lao động, pháp luật, kinh doanh, khởi nghiệp, các kỹ năng mềm và đổi mới sáng tạo cho lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tận dụng hiệu quả cơ hội Cách mạng công nghiệp 4.0. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần gắn với đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng số cho người dân, góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số khu vực nông thôn; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại, phù hợp với nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao.
Phát huy tinh thần đi đầu sáng tạo của nông dân, là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Khuyến khích nông dân mạnh dạn tìm tòi, nâng cao trình độ kỹ thuật, kỹ năng; nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, làm cho khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực chính phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. Tăng cường chuyển giao khoa học, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh cho dân; ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, quản lý an toàn thực phẩm; phát huy vai trò cầu nối liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với nhà nông để đẩy mạnh chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường trong sản xuất nông nghiệp, chế biến thực phẩm và chuyển đổi số cho nông dân.
Năm là, phát triển nông thôn toàn diện
Xây dựng nông thôn mới là chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước; là nguyện vọng thiết tha của GCND. Xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại, phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, vì lợi ích của người dân được quan tâm thực hiện. Cần tiếp tục vận động nông dân tích cực tham gia thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc giai giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030” của Chính phủ. Tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, đem lại quyền lợi chính đáng cho GCND trên địa bàn nông thôn, thực hiện xây dựng nông thôn mới theo các tiêu chí mà Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28-1-2022 “Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, nêu rõ: “Phấn đấu Việt Nam trở thành một trong những nước có nền nông nghiệp hàng đầu thế giới với ngành công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, hiệu quả, thân thiện với môi trường. Nông thôn không còn hộ nghèo và trở thành “nơi đáng sống”, văn minh, xanh, sạch, đẹp với điều kiện sống, thu nhập dân cư nông thôn tiệm cận và kết nối chặt chẽ, hài hòa với đô thị”5.
Để thực hiện mục tiêu trên, các cấp ủy, tổ chức Đảng, HND Việt Nam và cả hệ thống chính trị tích cực tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hội viên, nông dân ở cơ sở, địa phương nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng tiến bộ với trình độ sản xuất ngày càng cao; thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng cộng đồng dân cư tiên tiến, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc; phối hợp với cơ quan, tổ chức thực hiện hiệu quả việc bảo tồn và phát triển ngành, nghề, làng nghề truyền thống mang đặc trưng văn hóa vùng, miền gắn với bảo vệ môi trường nông thôn; tích cực tham gia bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở địa phương. Tích cực vận động, hỗ trợ hội viên, nông dân tham gia thực hiện các chính sách, chương trình an sinh xã hội, chương trình chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao trong cộng đồng nông thôn...
Đẩy mạnh hỗ trợ, vận động hội viên, nông dân tham gia cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; bảo vệ môi trường; tích cực tham gia thực hiện hiệu quả các mô hình giảm nghèo, đa dạng hóa sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chỉ số phát triển con người cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các xã nghèo, đặc biệt khó khăn.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn đồng bộ, hiện đại, kết nối với đô thị, nhất là các khu vực ven đô thị lớn, thị trấn, thị tứ, từng bước tiệm cận về điều kiện kết cấu hạ tầng, dịch vụ của đô thị; hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông, chuyển đổi số, văn hóa, giáo dục, y tế; cung cấp nước sạch theo quy chuẩn; xử lý, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.
Sáu là, xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh, thực sự đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân
Là tổ chức chính trị-xã hội đại diện cho quyền và lợi ích của GCND, đồng thời là cầu nối giữa Đảng với người nông dân, HND có vai trò rất quan trọng đối với sự lớn mạnh của GCND. Xây dựng HND Việt Nam vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, các cấp HND Việt Nam đã tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở; lấy cơ sở là địa bàn trọng yếu, chi hội là đơn vị hành động, cán bộ là khâu then chốt. Xây dựng Hội vững mạnh về tư tưởng, tổ chức và hành động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội thật sự là trung tâm nòng cốt trong mọi hoạt động của tổ chức Hội và phong trào nông dân, bởi cán bộ mạnh thì phong trào mạnh.
Nâng cao vai trò của HND trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi của nông dân; gắn tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho hội viên, nông dân với chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân; phát huy vai trò là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân, là cầu nối giữa nông dân với Đảng, Nhà nước; là nhân tố tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, liên minh công nhân - nông dân - trí thức; chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đối ngoại nhân dân.
Đảng và Nhà nước tiếp tục có những chủ trương, chính sách cụ thể để xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của HND Việt Nam. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy HND các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu quả; nâng cao chất lượng tổ chức Hội ở cơ sở, nhất là tổ chức Hội ở những địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh. Xây dựng đội ngũ cán bộ hội đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát triển và nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ hội các cấp bảo đảm về số lượng, chất lượng; chăm lo xây dựng đội ngũ Ban Chấp hành, Ban Thường vụ HND các cấp có đủ năng lực, bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng thu hút cán bộ trưởng thành từ thực tiễn về làm việc tại HND. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, đánh giá cán bộ hội các cấp; xây dựng lộ trình và thực hiện công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện quy hoạch trong tổ chức Hội để nâng cao trình độ, kinh nghiệm thực tiễn.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo phải có trọng tâm, trọng điểm, hướng mạnh về cơ sở; kịp thời nắm bắt, giải quyết những khó khăn, bức xúc, tâm tư nguyện vọng của hội viên nông dân; khơi dậy ý chí, khát vọng của nông dân gắn với các hoạt động thiết thực của Hội. Phát huy vai trò của HND trong việc tuyên tuyền, vận động tham gia thực hiện các đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn; gắn công tác vận động với giải quyết tốt lợi ích của hội viên, nông dân. Phát huy giá trị cốt lõi và những phẩm chất cao đẹp của người nông dân Việt Nam, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn văn minh.
Sức mạnh của GCND chỉ được thể hiện và phát huy trong hoạt động của tổ chức, được tập hợp lại trong một khối thống nhất. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục có những chủ trương, chính sách cụ thể để xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của HND Việt Nam trong việc tham gia trực tiếp các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với nông dân ở các cấp; phát huy và nâng cao khả năng phản biện xã hội của HND trong các vấn đề có liên quan tới đời sống chính trị, kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển.
Các cấp HND phải tích cực tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, vận động, hướng dẫn nông dân tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, thông minh, ứng dụng công nghệ số. Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nông dân thực hiện chuẩn mực nếp sống văn minh; khôi phục, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động nông dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Phát huy vai trò của GCND tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp hội thực hiện tốt vai trò đại diện GCND tham gia xây dựng các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ động tham gia ngay từ đầu và trực tiếp đối với các nội dung liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chức năng, nhiệm vụ của Hội. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội. Phát huy vai trò, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của các cấp hội, nhất là các nội dung liên quan về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức và liên kết, hợp tác với các giai tầng khác. Thực hiện hiệu quả các chương trình phối hợp giữa các cấp HND với chính quyền cùng cấp, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để hỗ trợ hội viên, nông dân, tổ chức các phong trào nông dân, góp phần củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và đẩy mạnh hợp tác, liên kết giữa nông dân với các giai tầng khác trong phát triển sản xuất, kinh doanh.
Chú trọng công tác xây dựng Đảng ở nông thôn, luôn coi xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn là nhiệm vụ quan trọng; tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ đảng viên ở cơ sở nông thôn; coi sản xuất lương thực, nông dân tăng thu nhập, xử lý môi trường ổn định là những nội dung quan trọng.
Phát huy vai trò của HND Việt Nam trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến hội viên, nông dân, tạo sự đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của GCND với Đảng và Nhà nước.
Ngày nay, đất đương bước vào kỷ nguyên mới xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Những kinh nghiệm trong quá trình xây dựng GCND trong công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay rất có gái trị trong việc vận dụng vào thực tiễn nhằm thúc đẩy đất nước tiên lên, nhất là ở khu vực nông thôn.
Ngày nhận: 25-7-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 30-7-2025; ngày duyệt đăng: 25-8-2025
1. Tổng cục Thống kê: Số liệu thông kê Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Thống kê, H, 2004, tr. 171
2. Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam: Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Nông dân Việt Nam, ngày 5-10-2023, tr.2, lưu Văn phòng Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Nxb CTQGST, H,2021, T. I, tr. 96
4, Thủ tướng Chính phủ: Quyết đinh số 150-QD-TTg huvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Quyet-dinh-150-QD-TTg-2022-Chien-luoc-phat-trien-nong-nghiep-va-nong-thon-ben-vung-502104.aspx