Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức được hình thành từ sự kế thừa tư tưởng trọng dụng nhân tài trong lịch sử dân tộc, kết hợp với sự tiếp thu các giá trị và tinh hoa văn hóa nhân loại, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng này của Người được Đảng bổ sung, phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng đã xác định “xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp "nguyên khí quốc gia" và phát triển bền vững; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, để tập hợp, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và từ chính tầng lớp trí thức.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam; đội ngũ trí thức; thời kì đổi mới

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và trọng dụng đội ngũ trí thức      

Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, trọng dụng đội ngũ trí thức được hình thành từ sự kế thừa tư tưởng trọng dụng nhân tài của ông cha ta kết hợp với sự tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại; được hình thành khi Người còn hoạt động ở nước ngoài, được bổ sung, vận dụng trong suốt quá trình cùng Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc. Tư tưởng đó của Người gồm những nội dung sau:

Một là, trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”, cần trọng dụng đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình trí thức. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã là giáo viên, sau này là nghiên cứu sinh ở Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Từ nguồn gốc, truyền thống gia đình đến quá trình tiếp xúc, học hỏi trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, Người nhận thức được rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản" nhưng “muốn làm cách mạng phải có lý luận cách mạng”, phải có tri thức cách mạng. Chính vì vậy Người luôn luôn quan tâm đến đội ngũ trí thức.

Từ năm 1927, để hướng dẫn nhân dân làm cách mạng, trong lời dẫn cuốn Đường Cách mệnh, Người nêu rõ tầm quan trọng của lí luận cách mạng: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động … Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong"1. Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, trong Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, ghi rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, v.v… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”2. Đây là quan điểm xuyên suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, về tập hợp đội ngũ trí thức tham gia đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước.

 Năm 1941, Người trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Tư tưởng trọng dụng nhân tài, trọng dụng trí thức của Người được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn và Chương trình 44 điểm của Mặt trận: “Chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”3.

Năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”. Để tìm người tài đức ra gánh vác việc nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”4. Người kêu gọi: “chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng, có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay5.

Trong quá trình thành lập Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động mời các nhà trí thức, nhân sĩ, quan lại của triều đình phong kiến tham gia chính quyền, cử giữ những chức vụ trong Chính phủ như: Huỳnh Thúc Kháng, sau hai lần được Hồ Chí Minh mời đã đồng ý làm việc cho Chính phủ và được cử làm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời6; Nguyễn Văn Tố - một trong bốn nhà trí thức Tây học xuất sắc thời bấy giờ, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia chính quyền cách mạng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời7; Bùi Bằng Đoàn8 làm cố vấn Chủ tịch nước, Trưởng ban Thanh tra Đặc biệt và Trưởng ban Thường trực Quốc hội từ tháng 11-1946 cho đến khi tạ thế vào tháng 4 năm 1955; Phan Kế Toại9 giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ (11-1947); Phan Anh10 giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (3-1946) và Bộ trưởng Bộ Kinh tế (1947), v.v... Để trân trọng những đóng góp của giới trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thành lập “Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết” gồm hàng chục trí thức, nhân sĩ nổi tiếng, bộ trưởng, thứ trưởng để giúp việc Chính phủ như: Phan Anh, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Thai Mai, Hoàng Đạo Thúy,…11

Cùng với việc sử dụng những trí thức vốn có, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ cao. Chính phủ cho khai giảng trở lại các trường Đại học Y khoa, Dược khoa, Nha khoa và các trường Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Mỹ thuật, Cao đẳng Canh nông, Cao đẳng Thú y, đồng thời thành lập mới Trường Đại học Văn khoa, Cao đẳng Ngoại ngữ, Cao đẳng Pháp lý, Cao đẳng Giao thông công chính…

Ngày 19-12-1946, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”12. Năm 1947, Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển lên Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương “Động viên tất cả giới trí thức, văn nghệ tham gia kháng chiến, dùng các nhà trí thức văn hóa, chuyên môn vào các ngành công tác như quân giới, quân y, giáo học, tuyên truyền kháng chiến…”13. Ngày 22-6-1947, trong bài trả lời báo chí, Người nói rõ vai trò và sự trân trọng của Chính phủ đối với trí thức: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”14.

Năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước sang giai đoạn mới, trong bài “Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc” đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 1-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất”; “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”. Người khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân mới thật yêu chuộng trí thức”. Để hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến, “ngoài việc quân sự, ắt phải phát triển kinh tế cho nên cần có những người chuyên môn thông thạo về công nghệ và nông nghiệp… Cần đào tạo cán bộ cho mọi ngành hoạt động cho nên cần có thầy giáo, v.v… Do đó, lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội”15.

Tháng 2-1953, trong “Bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan Trung ương”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam gồm có những công nhân, nông dân, lao động trí óc yêu nước nhất,… trong công tác kháng chiến và kiến quốc” Đảng Lao động Việt Nam gồm có những công nhân, nông dân, lao động trí óc yêu nước nhất, hy sinh nhất,… trong công tác kháng chiến và kiến quốc”16; “Đảng và Chính phủ rất mong muốn, rất cố gắng mà đoàn kết với từng lớp trí thức, đoàn kết lâu dài trong kháng chiến, trong kiến quốc, thực hành xã hội chủ nghĩa … Trí thức công nông hóa, trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”17.

Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được giải phóng, đi lên CNXH, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, giáo dục. Người nói:Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”18. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù phải huy động sức người, sức của cho chiến trường miền Nam với quyết tâm “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” song với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã quyết định đưa hàng nghìn học sinh đi học tập, đào tạo ở các nước XHCN, hình thành đội ngũ trí thức đông đảo, vừa phục vụ trực tiếp cuộc kháng chiến, vừa phục vụ công cuộc xây dựng đất nước về sau.

Hai là, trí thức phải làm gương cho nhân dân, có trách nhiệm phục vụ cách mạng, đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao và tin dùng đội ngũ trí thức, mà còn yêu cầu đội ngũ trí thức phải kết hợp lý luận với thực tiễn, phải dũng cảm hy sinh đấu tranh để làm gương cho nhân dân. Người chỉ rõ: Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức… Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”19 và “một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế"20.

Người chỉ rõ trọng trách của đội ngũ trí thức trong cách mạng dân tộc dân chủ là phải gương mẫu đi đầu trên các mặt tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách và làm gương để phát động thi đua, thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước. “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để giành lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”21. Tháng 2-1948, trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ yêu cầu đối với trí thức: “Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã đấu tranh một cách rất dũng cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho nhân dân”22.

Như vậy, với chủ trương, quan điểm trọng dụng đội ngũ trí thức, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và kiến thiết đất nước nói chung trong những năm đầu xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ cũng như trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp, thu hút được nhiều nhà trí thức nổi tiếng tham gia cách mạng, không quản ngại khó khăn, nhiệt tình sáng tạo, có nhiều cống hiến, đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến23.

2. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

  Nhận thức được vai trò to lớn của tầng lớp trí thức đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ khi khởi xướng và thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của trí thức và có những chủ trương, chính sách nhằm xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.

Đại hội VI (1986) của Đảng nêu rõ: “Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân; và khẳng định: “Điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển”24.

Năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng nêu rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước”25. Đặc biệt, ngày 6-8-2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế… Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”26.

Đại hội XIII (2021) của Đảng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 với chủ đề: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Đại hội xác định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới” đồng thời nêu rõ quan điểm của Đảng là “Trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoàiThực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức27.

Năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới” khẳng định: “Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc;… là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đảng xác định: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp "nguyên khí quốc gia" và phát triển bền vững; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội”28

Cùng với những quan điểm, chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức trong nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” quy định: “Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà”29.

Tiếp đó, ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”. Chỉ thị nêu rõ: “Thường xuyên tổ chức cho người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp ý kiến và tham gia vào các sự kiện chính trị - xã hội lớn của đất nước… Có chính sách thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”30.

Hiện nay, trong gần 6 triệu người Việt Nam đang sinh sống, làm việc và học tập ở nước ngoài, có khoảng 600.000 người có trình độ đại học trở lên, trong đó, có nhiều nhà khoa học có tên tuổi trên các lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao như công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, chế tạo máy, điều khiển học, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, vật liệu mới, công nghệ nano, năng lượng, quản lý kinh tế, tài chính, ngân hàng.

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng có nhiều công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ, tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao, góp phần quan trọng cho quá trình CNH, HĐH đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, hạn chế như thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức; cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức chưa hợp lý; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, truyền thụ kiến thức, tư vấn, phản biện xã hội…

Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức trong các cấp uỷ, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức.

  Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí, thức nhằm phát huy dân chủ, tôn trọng tự do sáng tạođề cao đạo đức, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động khoa họccông nghệ, giáo dục và đào tạovăn hoá, văn học, nghệ thuật; tiếp tục tạo điều kiện và khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia đóng góp ý kiến, tư vấn, phản biện, giám sát xã hội đối với việc hoạch định chính sách, xây dựng và triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, công trình, dự án quan trọng của đất nước.

Ba là, cần tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài trong các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học; xác định lĩnh vực, hướng nghiên cứu trọng điểm, ưu tiên gắn với yêu cầu đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; khuyến khích các sở giáo dục và đào tạo, cơ sở nghiên cứu trong nước liên kếthợp tác với các cơ sở tiên tiến trên thế giới.

Bốn là, đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, kịp thời phát hiện nhân tài trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; có cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá trong thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức, nhất là các nhà khoa học giỏi, chuyên gia đầu ngành, nhân tài, trí thức trẻ đối với Tổ quốc và dân tộc.

Năm là, tăng cường hợp tác với trí thức người Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Mở rộng hợp tác quốc tế, giao lưu học thuật, liên kết, hợp tác chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ với các quốc gia, tổ chức đối tác có nền khoa học và công nghệ tiên tiến, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Kế thừa tư tưởnghiền tài là nguyên khí quốc gia” của ông cha trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Tư tưởng của Người về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức là di sản quý báu của Đảng, của nhân dân Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ trương đúng đắn về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Ngày nhận: 23-7-2024; ngày thẩm định, đánh giá: 25-11-2024; ngày duyệt đăng: 30-11-2024

1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 2, tr. 279

2. Sđd, T. 3,  tr. 3

3, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 7, tr. 149, 71-72

4, 5, 12. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 4, tr. 114, 114, 534

6. Năm 1946, trước khi lên đường thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định trao Quyền Chủ tịch nước cho Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”

7. Ngày 2-3-1946, tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, Nguyễn Văn Tố được bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội

8. Ông từng giữ chức Thượng thư Bộ Hình trong triều Nguyễn.

9. Ông từng giữ chức Khâm sai đại thần Bắc Bộ trong Chính phủ Trần Trọng Kim

10. Ông từng giữ chức Tổng trưởng Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim

11. Theo: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Sac-lenh-78-thiet-lap-Uy-ban-nghien-cuu-ke-hoach-kien-thiet-35930.aspx

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 8, tr. 182

14, 20, 21, 22. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 5, tr. 184, 275, 157, 472

16, 17, 19. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 8, tr. 51, 59, 53

18. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 10, tr. 345

23. Trong lĩnh vực giáo dục tiêu biểu là những nhà trí thức như: Vũ Đình Hòe, Đặng Thai Mai, Ngụy Như Kon Tum, Nguyễn Văn Huyên… Trong lĩnh vực y tế có rất nhiều bác sĩ nổi tiếng như Hồ Đắc Di, Hoàng Tích Trí, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ.... Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, các kỹ sư trí thức đóng góp trí tuệ của mình vào việc sáng tạo, chế tạo ra các loại vũ khí mới như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, tiêu biểu nhất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp,…

24. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 449

25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 141

26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2018, T. 67, tr. 799- 800

27. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H, 2021, tr. 167

28. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-45-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-phat-huy-vai-tro-cua-doi-ngu-tri-thuc-119231204122208681.htm, truy cập ngày 7-7-2024

29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2016, T. 63, tr. 287 - 288

30. Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011- 2015, Nxb CTQG, H, 2016,  tr. 447- 448.