Phó Tổng biên tập Tạp chí Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử ĐảngHọc viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21/07/2023 - 08:05 AM - 959 lượt xem
Tóm tắt: Thương binh, liệt sĩ là những người đã hi sinh tính mạng hoặc một phần thân thể của mình vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cả nước đã có hơn 191 nghìn chiến sĩ hi sinh và hàng chục nghìn thương binh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định những công lao to lớn của những thương binh, anh hùng liệt sĩ, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn, sự quan tâm sâu sắc đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với đất nước. Thực hiện tư tưởng, quan điểm của Người, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã luôn quan tâm, chăm lo, tri ân đối với thương binh, liệt sĩ đối với Tổ quốc
Từ khóa: Quan điểm của Hồ Chí Minh; thương binh, liệt sĩ.
1. Ngay sau khi dân tộc Việt Nam giành được độc lập, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Kỳ, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam một lần nữa. Đứng trước họa ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù xâm lược với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”1; “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”2 Sau 9 năm (1945-1954) kháng chiến, quân và dân Việt Nam đã giành được những chiến công “"lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải kí kết Hiệp định Geneve đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), bên cạnh những chiến công hiển hách, quân và dân Việt Nam cũng có những mất mát hi sinh. Việc ghi nhận những công lao to lớn của những thương binh, liệt sĩ đối với đất nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay 3 tuần sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 8-1-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư khen ngợi các chiến sĩ bị thương và sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ, cứu thương”. Trong thư, Người khen ngợi và đánh giá cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quên mình bảo vệ nền độc lập của các chiến sĩ, thương binh: “hễ vết thương khỏi, thì lại xin ra mặt trận”3; “Lòng yêu nước, chí kiên quyết của các chiến sĩ thật là đáng quý! Các chiến sĩ đã hy sinh máu mủ để giữ gìn đất nước. … Nay đã bị thương mà còn mong mỏi ra sát địch ở trận tiền”4. Người nhấn mạnh: “Các chiến sĩ thật xứng đáng với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế”5. Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi thăm và chúc các thương binh mau lành mạnh. Người cảm ơn các thầy thuốc và khán hộ (người phục vụ bệnh nhân ở các bệnh viện), cứu thương đã “hết lòng săn sóc thương binh một cách rất chu đáo” và khẳng định các thầy thuốc và khán hộ, cứu thương “cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc”6.
Đến tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cơ quan Chính phủ chọn một ngày trong năm làm Ngày Thương binh để nhân dân cả nước có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện yêu cầu của Người, đầu tháng 7-1947, Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” được thành lập và tổ chức hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở trung ương, khối và tỉnh đã họp ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên). Hội nghị thảo luận và nhất trí lấy ngày 27-7-1947 làm Ngày Thương binh.
Ngày 17-7-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Người cho rằng “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”7. Người chỉ rõ “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”8
Như vậy có thể thấy rằng, với sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong năm 1947, Đảng và Chính phủ đã ban hành được chính sách đối với thương binh và thân nhân liệt sĩ. Cùng với đó là bộ máy tổ chức đảm nhiệm công tác này được thành lập từ trung ương xuống đến địa phương. Ngày 27- 7 hằng năm trở thành Ngày Thương binh (đến năm 1955 đổi thành Ngày Thương binh, liệt sĩ). Đây là ngày để nhân dân cả nước tri ân những đóng góp to lớn của thương binh, liệt sĩ đối với Tổ quốc.
Kể từ khi Ngày Thương binh 27-7 lần đầu tiên được tổ chức (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên viết thư thăm hỏi, động viên thương bệnh binh, thân nhân liệt sĩ như: “Thư gửi anh em thương binh Liên Khu III”, “Thư gửi anh em thương binh Mặt trận Lê Hồng Phong”, “Thư gửi các thương binh tại Mặt trận Trung du và Đông Bắc”, “Thư gửi Ban tổ chức Trung ương Ngày thương binh, tử sĩ”, “Thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh Vũ Đình Tụng”,… Người nhấn mạnh đóng góp to lớn của những thương binh, liệt sĩ và khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn ghi nhớ công lao của họ. Trong “Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm hai năm kháng chiến toàn quốc”, Người viết “Tôi lại thay mặt Chính phủ, kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh cho Tổ quốc và gửi lời thân ái an ủi các thương binh, cựu binh, cùng gia đình các chiến sĩ”9.
Trong Lời kêu gọi ngày 27-7-1948, Người nêu rõ: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ10. Người nhấn mạnh: “Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào. Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ đang tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ”11 và mong muốn “đồng bào sẵn lòng giúp đỡ họ về vật chất và về tinh thần”12.
Năm 1950, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta chuẩn bị bắt đầu bước vào cuộc tổng phản công. Ngày 27-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban tổ chức Trung ương Ngày Thương binh nêu rõ: “Ngày 27-7 là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy, thì những người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh, tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Càng tưởng nhớ đến những người con dũng cảm của Tổ quốc, thì mọi người càng phải thêm hăng hái thi đua làm trọn nhiệm vụ tổng động viên, để chuẩn bị đầy đủ, để chuyển mạnh sang tổng phản công, để tranh lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Mà cũng để trả thù cho thương binh và tử sĩ ta”13.
Bác Hồ đến thăm trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội
2. Để tỏ lòng biết ơn và giúp đỡ các thương binh, trong “Thư gửi ban thường trực của ban tổ chức "Ngày thương binh toàn quốc"”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị nhân dân cả nước “vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương” và nêu rõ “Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”. Người xung phong ủng hộ một chiếc áo lót lụa, một tháng lương của, một bữa ăn của cá nhân và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, tổng cộng là 1.127 đồng14.
Về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ, ngày 16-2-1947, Chủ tịch Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 20/SL quy định về “Hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ ở Việt Nam. Sắc lệnh nêu rõ những quân nhân thuộc các ngành quân đội quốc gia Việt Nam nếu trong lúc tại ngũ, vì giao chiến với quân địch, vì thừa hành công vụ, vì tận tâm với một việc ích chung, hoặc vì cứu một hay nhiều người mà bị thương tật, thì được hưởng Hưu bổng thương tật15. Đến ngày 19-7-1947, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định thành lập thành lập Bộ Thương binh, Cựu binh. Tiếp đó, sở và ty thương binh, cựu binh ở khu, tỉnh cũng được thành lập theo Sắc lệnh số 101/SL ngày 3-10-1947.
Người thấu hiểu những khó khăn, thiếu thốn về vật chất và tinh thần của thương binh, gia đinh liệt sĩ, vì vậy, vào dịp Kỉ niệm Ngày Thương binh 27-7, Người thường gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh và góp một tháng lương. Như nhân Kỉ niệm Ngày Thương binh 27-7-1949, Người đã viết thư cho Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh Vũ Đình Tụng bày lòng biết ơn những chiến sĩ đã hi sinh xương máu cho Tổ quốc, cho đồng bào. Người tặng quà cho các thương binh cùng các gia đình tử sĩ, gồm một số khăn mặt và áo quần mà đồng bào các nơi đã biếu Người và một tháng lương của Người là 1.000 đồng. Người nhờ Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh Vũ Đình Tụng chuyển lời thân ái an ủi anh em thương binh cùng các gia đình tử sĩ16.
Vào dịp 27-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh biết Chính phủ không chủ trương mở cuộc lạc quyên, song Người vẫn mong “các đoàn thể văn hoá, công nhân, nông dân, phụ nữ, nhi đồng, và các bộ đội hoặc đến an ủi thương binh và gia đình tử sĩ, hoặc viết thư hỏi thăm, ai sẵn quà gì thì biếu quà ấy để tỏ lòng thương mến”. Đồng thời, Người tự nguyện gửi một tháng lương để góp vào quỹ tổ chức ngày 27-717. Khi nhận được quà biếu, thư và áo của các đồng chí thương binh Liên khu III, Người đã rất cảm động và cảm ơn tấm lòng của các đồng chí thương binh. Về món quà, Người cho rằng: “Không nhận chăng? Thì e anh em tủi. Nhận lấy chăng? Thì tôi không yên lòng. Tôi định giải quyết thế này: Nhờ các Đoàn thể bán đấu giá bộ áo ấy, bán được bao nhiêu tiền thì đưa dùng vào việc nghĩa”18.
Để giúp đỡ thương binh một cách căn cơ, Người đề Nghị: “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian”, “Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào hằng tâm hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh. Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã sẽ tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi sẽ để nuôi thương binh”19.
Đối với những tập thể có nhiều thành tích trong phong trào đến ơn, đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, Người kịp thời viết “Thư gửi ty giáo dục, các hiệu trưởng, giáo viên và các cháu học trò khu X” khen ngợi thầy, cô giáo và học sinh đã “hăng hái giúp đỡ thương binh và đồng bào tản cư, ủng hộ bộ đội”, thầy cô giáo ở các trường học Khu X “trồng rau để bán lấy tiền giúp Quỹ thương binh và mùa Đông kháng chiến” 20. Người viết “Thư gửi phụ nữ nhân dịp kỷ niệm Hai bà Trưng và ngày quốc tế phụ nữ”, khen “Các bà mẹ chiến sĩ và các chị em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sĩ thành một mối yêu thương không bờ bến, mà giúp đỡ chiến sĩ và săn sóc thương binh như con em ruột thịt của mình” 21.
Đối với các cá nhân tận tình giúp đõ thương binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời gửi thư khen, cảm ơn. Ngày 27-7-1947, biết bà Bá Huy có lập Trại An dưỡng thương binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cám ơn bà: “Thưa bà, tôi nhận được báo cáo rằng bà đã hăng hái giúp đất ruộng, trâu bò, thóc lúa và tiền bạc để lập một an dưỡng đường cho thương binh. Tôi rất lấy làm vui lòng (…) bà đã hy sinh tiền của để giúp đỡ anh em thương binh. Như thế là bà đã giúp sức vào công việc giữ gìn Tổ quốc. Như thế là bà đã làm kiểu mẫu cho đồng bào thực hành (…). Tôi thay mặt Chính phủ và anh em thương binh cảm ơn bà, và ngợi khen bà. Đồng thời tôi cũng cảm ơn các phụ lão, các vị thân hào và toàn thể nam nữ đồng bào ở vùng đó, đã giúp công, giúp của với bà, để lập nên an dưỡng đường "BÀ BÁ HUY". Tôi mong bà cùng toàn thể đồng bào vùng đó sẽ luôn luôn chăm nom giúp đỡ các thương binh.”22 Hoặc như Linh mục Lê Văn Yên (Bắc Ninh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện nêu rõ: “Tôi rất vui lòng được UBKC Khu XII báo cáo rằng: Ngoài sự làm tròn nhiệm vụ một uỷ viên trong UBKC tỉnh Bắc Ninh, ngài đã luôn luôn ra sức củng cố tinh thần đại đoàn kết giữa đồng bào lương và giáo. Ngài luôn luôn tận tâm săn sóc các anh em thương binh. Ngài lại không nhận lương phụ cấp. Như thế là ngài đã nêu cao cái gương Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho mọi người. Ngài đã và đang giúp một cách đắc lực vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ khen ngợi ngài. Tôi chắc chắn rằng với những người đại biểu hy sinh kiên nhẫn như ngài thì trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất độc lập nhất định thành công”23. Hoặc, khi nhận được số tiền lớn của cháu Thanh, cháu Bình để làm quà tặng thương binh, Người đã đóng góp ủng hộ và viết “Thư gửi cháu Thanh”, “Thư gửi cháu Bình”. Đây là các cháu đã đóng góp số tiền rất lớn24 để làm quà tặng các thương binh.
Người yêu cầu cán bộ ngành Thương binh, Cựu binh phải hiểu thật rõ rằng: “Thương binh, bệnh binh là những chiến sĩ đã hy sinh một phần xương máu, một phần sức khỏe vì kháng chiến, vì Tổ quốc. Chúng ta cần phải săn sóc chu đáo các anh em ấy.”25 Phát biểu tại Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa I, ngày 2-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta cũng chiếu cố các chiến sĩ hy sinh xương máu để bảo vệ đất nước, chúng ta cũng chiếu cố chiến sĩ đã hy sinh một phần xương máu hay tính mạng cho Tổ quốc, đó là thương binh và gia đình tử sĩ”26.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được kí kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam kết thúc thắng lợi. Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi khẳng định cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta “đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang” và nêu rõ: “Nhân dịp này, tôi thay mặt Chính phủ ngỏ lời thân ái khen ngợi toàn thể đồng bào, quân đội và cán bộ từ Nam đến Bắc. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc và gửi lời an ủi anh em thương binh, bệnh binh”27.
Trước khi ra đi về thế giới vĩnh hằng, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cả nước cần phải thực hiện tốt công tác thương binh, liệt sĩ, tri ân những công lao to lớn của thương binh, liệt sĩ đối với đất nước. Người yêu cầu: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”28.
Thấm nhuần những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sĩ và học tập, noi gương Người Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và toàn dân ta Việt Nam luôn tri ân những cống hiến, hi sinh của thương binh, liệt sỹ, thực hiện tốt chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, suốt từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến nay. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ghi nhận và những đóng góp của thương binh, liệt sĩ đối với Tổ quốc. Các liệt sĩ được Nhà nước cấp Bằng Tổ quốc ghi công, nghĩa trang liệt sĩ cấp quốc gia và ở các địa phương được xây dựng trang nghiêm. Thân nhân của liệt sĩ chưa đến đến tuổi lao động hoặc hết tuổi lao động được trợ cấp xã hội và một số ưu đãi khác. Thương binh được trợ cấp hằng tháng và những ưu tiên khác; thương binh nặng được Nhà nước nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân địa phương thường xuyên động viên thăm hỏi thương binh, thân nhân gia đình liệt sĩ,… Những chính sách và hành động đền ơn, đáp nghĩa thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, góp phần làm vơi đi những đau thương, mất mát đối với các thương binh và thân nhân liệt sĩ.
Ngày nhận bài: 1/7/2023; ngày phản biện: 8-7-2023; ngày duyệt đăng 21/7/2023
1, 2. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 4, tr.354, 3
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 14, 20, 22, 23. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 5, tr.16, 16, 16, 16, 204, 204, 652, 759, 580, 580, 204-205, 457, 206, 500
15. Xem: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bao-hiem/Sac-lenh-20-SL-dat-huu-bong-thuong-tat-tien-tuat-han-nhan-tu-si-36174.aspx, truy cập ngày 10-7-2023
13, 16, 17, 18. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T.6, tr. 415, 162, 415, 275
19, 21. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T.7, tr.135, 339,
24. Cháu Thanh đã gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh 10 vạn đồng để làm giải thưởng và làm quà tặng anh em bộ đội và thương binh. Cháu Bình gửi 2 vạn đồng để làm quà tặng anh em thương binh. Người viết thư cảm ơn hai cháu và gửi lại một nửa số tiền của mỗi cháu để các cháu làm vốn mà tăng gia. Đồng thời, Người thêm số tiền của mình vào cùng với số giữ lại của hai cháu để có đúng số tiền các cháu gửi làm quà cho các thương binh (Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, T. 8, tr. 40, 41)
25, 26. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 8, tr. 396, 360
27. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 9, tr.1
28. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 15, tr. 616