Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”1. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh đại đoàn kết dân tộc là truyền thống, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách luôn xuyên tạc nhằm mục đích chống phá chủ trương của Đảng về củng cố, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Cần nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác, củng cố niềm tin vào cội nguồn sức mạnh của dân tộc.
Từ khóa: Nhận diện luận điệu xuyên tạc; đại đoàn kết dân tộc; Việt Nam; phản bác
1. Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, chống phá khối đoàn kết dân tộc Việt Nam
Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội, các thế lực thù địch luôn rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là Đảng của nhân dân, mà là đảng của những người làm quan, có chức, có quyền trong bộ máy hệ thống chính trị” hay “gắn bó với nhân dân không phải là bản chất của Đảng vì Đảng là lực lượng lãnh đạo nhân dân, Đảng không cùng chung lợi ích với nhân dân”. Đây là quan điểm sai trái, cần phản bác.
Hai là, những luận điệu chia rẽ dân tộc ở các vùng miền ở Việt Nam
Lợi dụng sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) cùng những bất cập trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa phương, các thế lực thù địch đã xuyên tạc rằng: “Đảng, Nhà nước đối xử không công bằng, chỉ chăm lo cho người Kinh mà không chăm lo cho đồng bào DTTS, khiến cho cuộc sống của đồng bào khó khăn, nghèo đói”. Các thế lực thù địch đã cố tình đánh tráo khái niệm, gọi một số DTTS tại chỗ, như: đồng bào Chăm ở Duyên hải miền Trung, đồng bào Khơme ở Tây Nam Bộ, đồng bào Ê đê, Ba Na ở Tây Nguyên là các “dân tộc bản địa” và rêu rao rằng, “các dân tộc bản địa này bị người Kinh cướp đất”, vì vậy, phải tách ra thành lập nhà nước riêng để đòi lại những gì thuộc về mình. Trước những thay đổi về văn hóa - xã hội ở các vùng DTTS theo hướng hiện đại, tiến bộ, các thế lực thù địch, phản động vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam không tôn trọng bản sắc, văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS, cố tình “đồng hóa về văn hóa” ở vùng đồng bào DTTS theo văn hóa người Kinh để “Kinh hóa đồng bào dân tộc thiểu số”. Trước những khó khăn y tế, giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, chúng rêu rao rằng, chính quyền của người Kinh “ngược đãi” đồng bào DTTS, không chú ý đến việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí ở vùng DTTS để “dễ bề cai trị”.
Ba là, những luận điệu xuyên tạc chính sách hòa hợp dân tộc
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc, vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, một số người ở miền Nam Việt Nam đã ra nước ngoài sinh sống. Cùng với đó, mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng bị “đóng băng” trong một thời gian dài. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn ra sức đưa ra các luận điệu sai trái để xuyên tạc, phủ nhận tinh thần hòa hợp dân tộc. Xuất phát từ việc xuyên tạc bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc “nội chiến”, các thế lực thù địch cáo buộc rằng chiến thắng 30-4 chính là “ngày quốc hận”, “tháng Tư đen” vì “Việt Nam cộng sản đã xử thẳng tay với người Việt”, “buộc hàng triệu người phải vượt biển ra đi, hàng nghìn người bỏ mạng…”! Một số người tự xưng là các “nhà dân chủ” đã vin vào những tư tưởng tự do phương Tây để phán xét Việt Nam “không chấp hành nghiêm điều khoản về hòa hợp, hòa giải dân tộc trong Hiệp định Paris 1973” và lên tiếng cáo buộc chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam chỉ là “con đường nửa vời”, “hình thức”. Từ đó, họ kêu gọi để thực sự thực hiện hòa hợp dân tộc cần phải theo kiểu tự do phương Tây. Gần đây, trong một văn kiện chính trị của một trong những tổ chức phản động luôn chĩa mũi nhọn vào Việt Nam mang tên “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoái cho tương lai” (công bố tháng 2-2025), các thế lực thù địch đã lên tiếng cáo buộc Việt Nam đã “bỏ rơi” đồng bào đang sinh sống ở nước ngoài, không trưng dụng họ, không thực sự tạo điều kiện cho họ về đóng góp xây dựng quê hương, đất nước. Lấy cớ cho rằng 50 năm qua, Việt Nam đã “bỏ qua những cơ hội vàng để phát triển”, các thế lực phản động đã lôi kéo, kích động một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài chung tay “cùng tìm lối thoát để sớm tạo nên những chuyển động lịch sử, góp phần khởi tạo sự vươn mình của Việt tộc”.
Những luận điệu trên là hoàn sai trái, gây kích động, thù hằn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, cần phải bác bỏ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử.
Luận cứ đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch
Một là, luận cứ phản bác luận điệu xuyên tạc mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của toàn dân tộc, trở thành “con nòi” của nhân dân, của dân tộc, được nhân dân đùm bọc, che chở và nuôi dưỡng. Từ khi thành lập đến nay, tuyệt đại đa số đảng viên của Đảng đều có nguồn gốc xuất thân từ giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức và những người lao động, tầng lớp khác khác tự nguyện gia nhập vào Đảng. Mục đích lý tưởng của Đảng là vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Thực tiễn ra đời, xây dựng, phát triển và lãnh đạo của Đảng đều cho thấy, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân mà Đảng tồn tại. Ngay trong Điều lệ vắn tắt khi thành lập Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo (1930) đã xác định tôn chỉ của Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Xuất phát từ tôn chỉ, mục đích của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”, “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Gắn bó với nhân dân vừa là yêu cầu từ trong bản chất của Đảng, vừa là cơ sở tồn tại, vừa là điều kiện tiên quyết để Đảng thực hiện thắng lợi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình.
Thực tiễn lịch sử phát triển của các quốc gia cho thấy, vấn đề dân chủ hay không dân chủ không phải chỉ phụ thuộc vào một đảng hay nhiều đảng cầm quyền. Chế độ dân chủ của mỗi quốc gia phụ thuộc trước hết vào bản chất, mục đích của đảng cầm quyền và cơ chế vận hành của thể chế chính trị của quốc gia đó. Đảng cầm quyền vì lợi ích của ai, hệ thống chính trị đó phục vụ lợi ích của ai, có vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân lao động hay không, chứ không phải cứ “đa nguyên”, “đa đảng” mới là dân chủ. Theo đó, không thể nói thể chế nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “phi dân chủ”, cũng không thể nói đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một số nước mới là dân chủ thực sự. Mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, Nhân dân ở mỗi nước đều có quyền lựa chọn chế độ chính trị của riêng mình. Điều quan trọng nhất đối với Nhân dân ở mỗi nước là Đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, xã hội do một đảng duy nhất cầm quyền có ổn định và phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc không? Mức độ dân chủ hay không dân chủ của chế độ chính trị ở một quốc gia không phụ thuộc vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, mà nó phụ thuộc vào bản chất, mục đích của chính đảng cầm quyền và cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị.
Hai là, luận cứ phản bác luận điệu chia rẽ vùng miền các dân tộc Việt Nam
Những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với đồng bào DTTS, đồng bào có đạo; không ngừng đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các DTTS, nhất là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù đối với vùng dân tộc và miền núi, động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ở khu dân cư, xây dựng bản làng văn hóa.
Hiến pháp 2013 tại Điều 5 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Điều 14, Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết trong lao động và chống giặc ngoại xâm trong bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước. Truyền thống đó tiếp tục được Đảng phát huy trong thực hiện hiệu quả các chương trình xây dựng nông thôn mới, định canh, định cư, tạo việc làm cho lao động tại chỗ là người DTTS; hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào theo đạo. Người dân tộc, tôn giáo đều có thể tham gia quản lý, điều hành xã hội, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước là người DTTS, theo đạo. Do đó, lợi dụng “dân tộc”, “tôn giáo” tạo vỏ bọc gây ra các bất ổn chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, là âm mưu của các thế lực thù địch thực hiện mục tiêu chống phá cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, luận cứ phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam
Hòa hợp, hòa giải dân tộc là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Ngay khi bước vào đàm phán hòa bình ở Hội nghị Paris, hòa giải và hòa hợp dân tộc đã được cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt ra như một yêu cầu tiên quyết để giải quyết vấn đề chấm dứt chiến tranh cũng như xây dựng lại sau khi chiến tranh kết thúc. Tinh thần nhất quán về hòa giải và hòa hợp dân tộc đã được Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam theo đuổi cho tới khi Hiệp định Paris được ký kết. Điều 11, Hiệp định Paris khẳng định: “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ: Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia…”8.
Kể từ sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về hòa hợp, hòa giải dân tộc. Ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất” khẳng định: “chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau...”9. Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”10. Đối với đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”11.
Tinh thần nổi bật của những chủ trương, chính sách đó là sự khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là tiếp tục quan tâm, có giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, không phân biệt ý thức hệ, lịch sử cá nhân, kể cả đối với những người còn định kiến, mặc cảm với chế độ xã hội; lấy tình thân ái để cảm hóa những đồng bào lầm đường lạc lối.
Cùng với đó là những hành động thiết thực để chủ động mở rộng tiếp xúc với tất cả kiều bào ta định cư ở nước ngoài. Các cơ quan chuyên trách về công tác người Việt ở nước ngoài luôn tích cực hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, tạo điều kiện cho kiều bào hòa nhập với các nước sở tại trong sinh sống làm ăn; đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, hướng về Tổ quốc; hỗ trợ dạy và học tiếng Việt hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần của bà con theo truyền thống dân tộc và phù hợp với đặc thù, pháp luật của nước sở tại.
Mục tiêu của chủ trương, chính sách hòa hợp của Đảng và Nhà nước Việt Nam là lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng của mọi người có dòng máu Việt, dù ở trong nước hay nước ngoài; tạo điều kiện cho mọi người, kể cả những người từng làm việc trong chế độ cũ, về thăm, đóng góp để xây dựng quê hương. Do những điều kiện mang tính lịch sử mà có thời điểm tiến trình hòa hợp dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có mặt còn hạn chế; nhưng xuyên suốt là hành trình không ngừng nghỉ của Đảng, Nhà nước Việt Nam chăm lo giải quyết vấn đề hòa hợp dân tộc; kiên trì vận động, thuyết phục những người còn giữ định kiến, mặc cảm, nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, dựng xây và phát triển đất nước.
Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc là chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Nhờ sự xây dựng, củng cố phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”2; “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”3. Đại đoàn kết dân tộc chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là minh chứng rõ ràng, thuyết phục phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về đại đoàn kết của một dân tộc đã có bề dày truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm và hiện đang chuẩn bị vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới.
Ngày gửi: 19-6-2025; Ngày thẩm định, đánh giá: 22-6-2025; Ngày duyệt đăng: 26-6-2025
1, 6. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 13, tr. 119, 164
2. Theo: Võ Văn Hải: “Lại những luận điệu của RFA”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 6/2023, tr. 8
3. Sđd, tr. 9
4. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 3, tr. 5
5. Sđd, T. 12, tr. 334
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 89
8. Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb CTQG, H, 2012, T. 2, tr. 19, lưu tại Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 53, tr. 75
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 158 - 159
11. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-36nq-tw-ngay-2632004-cua-bo-chinh-tri-ve-cong-tac-doi-voi-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-2102
12, 13. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 15, tr. 611, 611.