Tóm tắt: Xây dựng Đảng về tư tưởng là một trong những nội dung rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, có vai trò rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Bài viết tập trung phân tích, luận giải một số nội dung chủ yếu của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Từ khóa: Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng; Văn kiện Đại hội XIII; Đảng Cộng sản Việt Nam


 

Hội nghị tổng kết công tác tham mưu cấp ủy xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức
và các lĩnh vực tuyên giáo năm 2024; triển khai nhiệm vụ năm 2025

Xây dựng Đảng về tư tưởng là nguyên tắc hàng đầu của học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng về tư tưởng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Theo Người, công tác tư tưởng của Đảng là điều kiện tiên quyết cho sự thành công trong hoạt động lãnh đạo: “... công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất... tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất,... tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”1. Quán triệt sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn đặt công tác tư tưởng chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; coi đây là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng nền tảng chính trị của chế độ XHCN, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng luôn nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng nói riêng. Đại hội XII (2016) của Đảng xác định đổi mới công tác lý luận. Tại Đại hội XIII của Đảng (2021), trong Báo cáo Chính trị và Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng đều thống nhất mệnh đề: “Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng”. Sự coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng thể hiện tập trung ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng

Xây dựng Đảng về tư tưởng là xác lập, bồi đắp vững chắc nền tảng tư tưởng nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, bởi vì, sự thống nhất về tư tưởng là cơ sở của sự thống nhất về hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. “Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường; công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng... được chú trọng, đổi mới, góp phần tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội”2. Đây là thắng lợi của lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh kết quả to lớn trong xây dựng Đảng về tư tưởng, cũng đã xuất hiện tư tưởng cơ hội chính trị, vụ lợi, lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, bè phái, bất mãn,… nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đặc biệt là biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội XIII chỉ ra cụ thể: “nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng”3. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”4. Đánh giá này của Đảng cho thấy, đây là nguy cơ, thách thức trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây mất niềm tin của nhân dân, đe dọa đến sự tồn vong đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Từ thực tế đó, Đảng nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”5. Đây là một trong những “vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ng nghiêng, dao động”6. Quán triệt quan điểm chỉ đạo này trong thực tiễn, Đảng chủ trương phải “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội”7. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn coi việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở đường lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng”8. Đây là điều kiện tiên quyết để quy tụ, tập hợp, đoàn kết thống nhất các tầng lớp nhân dân, bởi vì, chỉ có Đảng lãnh đạo trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì “lòng dân” mới thống nhất với “ý Đảng”; nhân dân mới tin tưởng, ủng hộ, phấn đấu và đem hết sức mình phục vụ cho sự nghiệp chung của dân tộc, mới kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng gắn với tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã quán triệt lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, về mối quan hệ giữa phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng với công tác tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về những kết quả đạt được, Đảng khẳng định: “Việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt”9. Trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu chủ động, quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ tư tưởng, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, uy tín của các tổ chức đảng.

Bên cạnh chuyển biến tích cực, quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng chưa gương mẫu, còn buông lỏng công tác tư tưởng, chưa chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; chưa phát huy dân chủ trong thảo luận, tranh luận, đối thoại, lấy ý kiến tập thể, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, làm suy giảm vai trò lãnh đạo và tính chiến đấu của Đảng. “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”10.

Từ nhận định trên, Đại hội XIII của Đảng chủ trương “Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Đồng thời, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả”11. Nhiệm vụ quan trọng là phải tập trung khắc phục những khâu yếu kém trong việc ban hành và thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong việc thực hiện ban hành chủ trương, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả. Đặc biệt, việc xây dựng chủ trương, nghị quyết phải bảo đảm tính khoa học, phát huy dân chủ và năng lực trí tuệ của tập thể, của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Trong đánh giá hiệu quả, phải lấy tính khả thi, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của chủ trương, nghị quyết làm tiêu chí.

Thứ ba, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng nhấn mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua phân tích, đánh giá những kết quả thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn, lý luận được bổ sung và phát triển. Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn để hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH, về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội... và từng bước hiện thực hóa. Kết quả to lớn đó được Đảng khẳng định: “Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng”12.

Tuy nhiên, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập. Đến nay, còn không ít vấn đề lý luận và thực tiễn mới, khó chưa được luận chứng khoa học đầy đủ, cụ thể, cần phải tiếp tục bám sát thực tiễn, đi sâu nghiên cứu, thảo luận, tổng kết để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận mới nhằm nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục, tạo ra sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động. Về vấn đề này, Đảng chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu, một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ”13, đã làm hạn chế vai trò dẫn đường, tiên phong của tư tưởng, lý luận và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Để khắc phục những bất cập, hạn chế đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp thực hiện: “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu các vấn đề lý luận khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn có nhiều ý kiến khác nhau”14. Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận phải đứng trên lập trường phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng để làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, cấp bách, mới, khó, phức tạp, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm. Từ đó bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kịp thời cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là công việc quan trọng nhằm nâng cao công tác tư tưởng, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”; phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển”15.

Thứ tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới

Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách trong công tác tư tưởng của Đảng nhằm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đến nay, “Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị được đổi mới cả về nội dung và phương pháp; tăng cường quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, dạy và học hình thức”16, vì vậy, đã góp phần nâng cao trình độ lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, bản lĩnh chính trị đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, khắc phục được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Bên cạnh đó, Đảng cũng đã chỉ ra hạn chế: “việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Việc học tập lý luận chính trị tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu”17. Đây một trong những nguyên nhân dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chính sự suy thoái này không chỉ dẫn đến gây tác hại nghiêm trọng trong công tác lãnh đạo, quản lý, mà còn khiến cho cán bộ, đảng viên gặp khó khăn, “thất bại” khi vận động, tập hợp, thuyết phục, tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Để khắc phục hạn chế đó, Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”18.

Theo đó, các cấp ủy đảng phải nâng cao nhận thức về vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm, thái độ, động cơ học tập đúng đắn cho cán bộ, đảng viên. Quán triệt đầy đủ, sâu sắc nghị quyết, chỉ thị tổ chức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có biện pháp kiên quyết khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị. Phải căn cứ vào tình hình cụ thể về trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên trong chi bộ, đảng bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo đúng quy chế học tập gắn với quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ. Có cơ chế, chính sách, kế hoạch và giải pháp khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tự học, bồi dưỡng; chủ động nắm chắc diễn biến về tư tưởng chính trị, kịp thời phê phán, khắc phục những biểu hiện sai trái, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Đại hội XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đồng thời coi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ sống còn liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Để tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, thể hiện ý chí và quyết tâm cao của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đến nay, việc thực hiện Nghị quyết số 35 được triển khai bài bản, đồng bộ, quyết liệt và đi vào chiều sâu, đạt được nhiều kết quả quan trọng: “công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”19. Kết quả đó góp phần quan trọng bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Vit Nam; bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đại hội XIII của Đảng chỉ ra hạn chế, bất cập trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”20. Nguyên nhân chủ yếu là do một số cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng tham gia, nhất là vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Mặt khác, Đảng cũng nhận định là do: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”21; “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”22. Đây được coi là một trong những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ, có tác động trực tiếp đến chất lượng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Để công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đạt hiệu quả cao, Đảng chủ trương phải “thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”23. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ “xây” và “chống”, vừa tuyên truyền kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch nhất là những quan điểm xuyên tạc, bóp méo, đối lập với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận

Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng. Đây là lực lượng tham mưu cho cấp ủy, các cơ quan lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, có vai trò đi đầu trong việc tuyên truyền, giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thời gian qua, được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Đảng, hệ thống các học viện, các viện nghiên cứu, trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói riêng. Đến nay, về cơ bản, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận đông đảo về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đa dạng về chuyên ngành và lĩnh vực công tác, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động luôn có những chiêu thức, thủ đoạn mới, phương tiện mới để chống phá Đảng, Nhà nước, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra những tác động xấu trong xã hội; mặt khác, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn diễn biến phức tạp. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được các cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ. Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân...”24. Thực tế đó đặt ra cho Đảng phải tiếp tục xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận thực sự là “những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng”.

Đại hội XIII nêu rõ: “Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên; kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị”25. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trước hết là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chú trọng bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng; trình độ lý luận và ngoại ngữ, trình độ sử dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội; kỹ năng nghiên cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp, phong cách tuyên truyền, giảng dạy. Xây dựng cơ chế và tạo môi trường thuận lợi để thu hút, tập hợp được đông đảo đội ngũ cộng tác viên, báo cáo viên, giảng viên, những chuyên gia, nhà khoa học giỏi, có tâm, có tầm làm công tác tư tưởng; mở rộng các hình thức thảo luận, tranh luận, đối thoại tư tưởng, lý luận trên tinh thần khoa học, dân chủ, cầu thị; thật sự trân trọng những tư tưởng, đề xuất lý luận khoa học, hữu ích cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ bảy, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, tăng cường giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Các hình thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả, từng bước đáp ứng nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường...; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân”26. Tuy nhiên, Đảng cũng đã chỉ ra những bất cập: “Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập”27. Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận, nhất là phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn thiếu sót. Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng kịp thời, đầy đủ nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Việc lựa chọn nội dung, phương pháp vận động, tập hợp nhân dân ở nhiều nơi chưa sát thực tế, thiếu sáng tạo, hiệu quả chưa cao. Việc tổ chức theo dõi, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện công tác tư tưởng trong các phong trào ở nhiều nơi làm chậm, còn hình thức, chiếu lệ. Công tác đánh giá và dự báo tình hình, nắm bắt tư tưởng trong nhân dân có nơi, có lúc thiếu chính xác, chưa kịp thời.

Để khắc phục những bất cập đó, Đảng chủ trương phải: “Tiếp tục nâng cao nhận thức về đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền gắn với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, góp phần tạo đồng thuận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng”28; trong đó cần đổi mới công tác tuyên truyền, vận động theo hướng nâng cao tính giáo dục, thuyết phục, tính chiến đấu, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng”29. Như vậy, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu hệ thống chính trị phải nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng theo hướng nội dung, phương thức phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hướng mạnh về cơ sở nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong vic hiện thực hóa tư tưởng, lý luận của Đảng; củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết cũng như niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Trong tình hình hiện nay, xây dựng Đảng về tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với phương châm thực tiễn, khoa học, sáng tạo và hiện đại, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng sẽ thực sự vững mạnh và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ngày gửi:16-9 -2024; ngày thẩm định, đánh giá: 25-12-2024; ngày duyệt đăng:19-1-2025

1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 8, tr. 554 - 555

2, 3, 5, 6, 7, 19, 20, 21, 23, 24, 28. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. 1, tr. 74, 93, 33, 33, 181, 74, 91, 108, 41, 90-91, 76

4, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 16, 17, 18, 22, 25, 26, 27, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. 2, tr. 168, 214, 217, 253 - 254, 169-170, 222 - 223, 234 - 235, 170, 172, 235-236, 164, 236, 201-202, 205-206, 255

8. Nguyễn Phú Trọng: Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb CTQGST, H, 2023, tr. 39

15. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST, H, 2022, tr. 277.