Tóm tắt: Trên cơ sở làm rõ những biểu hiện của “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi chính sách xã hội, bài viết đề ra 7 giải pháp đồng bộ chống tiêu cực trong xây dựng và thực thi chính sách xã hội: Quán triệt vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Tổ quốc, của Đảng; minh bạch, công khai, theo đúng quy trình, quy định; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội; nghiên cứu hình thành quy trình xây dựng và thực thi chính sách tương đối độc lập; nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của các chủ thể tham gia xây dựng và thực thi chính sách xã hội.
Từ khoá: Phòng, chống lợi ích nhóm; Xây dựng và thực thi chính sách xã hội
Trong xã hội có nhiều giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau, do đó, có nhiều “lợi ích nhóm” của các nhóm xã hội khác nhau. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ có “lợi ích nhóm” tích cực và “lợi ích nhóm” tiêu cực. “Lợi ích nhóm” tích cực là những lợi ích chính đáng, đúng đắn, phù hợp pháp luật của các nhóm xã hội. “Lợi ích nhóm” tiêu cực là những lợi ích không chính đáng, không đúng đắn, không được pháp luật thừa nhận, thường thì chúng mâu thuẫn với lợi ích của xã hội, tập thể, quốc gia, dân tộc và với lợi ích đông đảo của nhân dân. “Lợi ích nhóm” tiêu cực thường là lợi ích của những nhóm công chức có chức, có quyền hoặc liên quan đến những người có chức, quyền cấu kết với nhau để thu vén cho lợi ích cá nhân. Ở Việt Nam, hiện nay, “lợi ích nhóm” thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực nhiều hơn nghĩa tích cực. “Lợi ích nhóm” tiêu cực thường gắn liền, đi đôi với tham nhũng, tiêu cực và có tác hại rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội (CSXH). Do vậy, đấu tranh chống những biểu hiện “lợi ích nhóm” tiêu cực trong xây dựng và thực thi CSXH có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
1. Biểu hiện “Lợi ích nhóm” tiêu cực trong xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở Việt Nam
“Lợi ích nhóm” tiêu cực trong xây dựng và thực thi CSXH ở Việt Nam thường biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, tham nhũng chính sách. Tham nhũng chính sách là một loại hình tham nhũng đặc biệt, nó tạo ra hành lang pháp lý cho việc trục lợi công khai. Tham nhũng chính sách là việc lạm dụng quyền được tham gia xây dựng, ban hành, thực thi và đánh giá chính sách để phục vụ lợi ích của cá nhân hoặc phe nhóm. Theo Khoản 2, Điều 1 của Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội ban hành ngày 20-11-2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2019 ghi rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Ở đây là những người được phân công, giao trách nhiệm xây dựng chính sách và thực thi CSXH đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong xây dựng chính sách và thực thi CSXH vì lợi ích cá nhân hoặc nhóm. Các cá nhân, doanh nghiệp mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân mình, nhóm mình, móc nối với những người xây dựng chính sách, những người ra quyết định để đưa ra chính sách cũng như việc thực thi chính sách ấy có lợi cho họ, bất chấp lợi ích quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, “Thông thường, chu trình chính sách gồm ba giai đoạn: hoạch định, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Trong mỗi giai đoạn đều có thể có các biểu hiện tham nhũng”1. Thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy: “hầu hết các dự thảo luật được trình Quốc hội thảo luận và thông qua là do Chính phủ xây dựng và đệ trình. Nếu quy trình soạn thảo và thẩm định luật không được tiến hành với các thủ tục chặt chẽ, nghiêm túc thì chính sách được ban hành sẽ tạo ra nhiều “lỗ hổng” để những người thực thi chính sách trục lợi. Ở đây, cơ hội cho tham nhũng nằm trong chính các “kẽ hở” chính sách và được “cài cắm” một cách rất tinh vi, có chủ ý bởi những chủ thể hoạch định chính sách”2. Chúng ta đều rõ, sau khi Quốc hội thông qua luật hoặc các chính sách quan trọng, để đi vào đời sống, luật thường phải chờ nghị định của Chính phủ, nghị định phải chờ thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành. Đây chính là công đoạn mà một số chủ thể có thể soạn thảo những hướng dẫn, cách hiểu luật, chính sách theo hướng có lợi cho họ và nhóm của họ. Trong xây dựng chính sách, họ cũng có thể tham nhũng bằng cách tạo các “lỗ hổng”, “kẻ hở” để bản thân họ cũng như phe nhóm của họ có cơ hội lợi dụng những “lỗ hổng”, “kẻ hở” của chính sách để tham nhũng. Tất nhiên cũng có những “lỗ hổng”, “kẻ hở” do người xây dựng chính sách còn hạn chế về thông tin, chưa thấy hết vấn đề, nhưng có những “lỗ hổng”, “kẻ hở”do cố ý tạo ra để trục lợi chính sách.
Hai là, sự móc nối, trao đổi lợi ích, ủng hộ về mặt chính trị trong xây dựng chính sách và thực thi CSXH. Họ có thể tác động vào hoạt động lập pháp thông qua việc vận động không chính đáng vào việc soạn thảo, tiếp thu, chỉnh lý và biểu quyết thông qua chính sách trong các dự án luật, nghị quyết, việc vận động phát biểu, chất vấn, vận động bỏ phiếu,v.v, thông qua các CSXH có lợi cho họ. Các CSXH sau khi được ban hành sẽ có lợi cho các nhóm mà họ đã tìm cách được tham gia xây dựng. Họ thường là đối tượng không phải làm việc vất vả, hay phải phấn đấu khó khăn nhưng được hưởng sự ưu tiên, ưu đãi trong các CSXH này. Đúng như một ý kiến của một người làm công tác lập pháp khẳng định: “Những chính sách này tuy mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ người nhưng lại gây thiệt hại to lớn cho lợi ích chung của quốc gia. Hoặc một nhóm người được hưởng lợi từ các thủ tục hành chính phức tạp, nhưng đa số nhân dân thì bị gây phiền hà, tốn kém; bộ máy nhà nước cồng kềnh, lãng phí”3.
Ba là, đánh lừa dư luận, định hướng chính sách theo ý mình để đạt được “lợi ích nhóm”. Các nhóm lợi ích có thể mua chuộc một số phóng viên, nhà báo biến chất để đưa tin không trung thực, “lăng xê” không đúng sự thật nhằm đánh lừa dư luận, định hướng chính sách theo ý mình để đạt được “lợi ích nhóm”4. Biểu hiện này gần với chủ nghĩa dân túy, vì cũng có thể hiểu chủ nghĩa dân túy với những thủ đoạn chính trị mang tính chất mị dân, đánh vào tâm lý, quan điểm của đám đông để kêu gọi, tổ chức phong trào nhằm lôi kéo, tranh thủ quần chúng ủng hộ sửa đổi, điều chỉnh, xây dựng những chính sách có lợi cho nhóm này.
Bốn là, tác động trong thực thi chính sách xã hội nhằm thu lợi bất chính. Trong thực thi chính sách xã hội, các nhóm có thể tác động đến các hoạt động và lĩnh vực, như phân bổ ngân sách, quản lý, sử dụng các quỹ bảo hiểm, quỹ an sinh xã hội, quỹ bảo trợ xã hội, v.v.. nhằm thu lợi bất chính cho những người của nhóm này, gây thiệt hại cho nhà nước. Chẳng hạn, với khoản đầu tư vào Công ty cho thuê tài chính ALC II - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam gặp rủi ro khi Công ty cho thuê tài chính ALC II tuyên bố phá sản vào tháng 7-2018. Nhưng đến nay Công ty cho thuê tài chính ALC II vẫn nợ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam hơn 1.600 tỉ đồng5. Hay như sau hơn 10 năm triển khai (bảo hiểm bắt buộc với xe máy) tỷ lệ chi trả bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự với xe máy vẫn ở mức rất thấp, gần 6% năm 2019 (tương đương 45 tỷ đồng chi trả trên 765 tỷ đồng phí bảo hiểm). Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều các loại bảo hiểm bắt buộc khác như tỷ lệ chi trả của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của ôtô là khoảng 33%, bảo hiểm cháy nổ là 31%6.
2. Một số giải pháp đấu tranh chống những biểu hiện “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi chính sách xã hội
Trong tình hình hiện nay, để đấu tranh chống những biểu hiện “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi CSXH một cách hiệu quả, cần chú ý một số giải pháp sau:
Một là, khi có nhu cầu xây dựng và thực thi CSXH cần trả lời câu hỏi việc xây dựng và thực thi chính sách này phục vụ cho lợi ích của ai? Của nhân dân, Tổ quốc, dân tộc, của Đảng hay của nhóm nào, đối tượng thụ hưởng chính sách là những ai? Nếu chính sách này không phục vụ lợi ích cho đại đa số nhân dân, cho Tổ quốc, dân tộc, cho Đảng, Nhà nước thì không cần xây dựng. Nếu chính sách này phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân, cho Tổ quốc, dân tộc, cho Đảng, Nhà nước thì cần xây dựng. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại nhấn mạnh: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”7. Vì vậy, việc xây dựng và thực thi CSXH cũng cần tuân thủ bài học kinh nghiệm này. Đối tượng của các CSXH đa số là những người đã hết tuổi lao động, những người già, mất sức lao động, những người nghỉ chế độ, những người có công với đất nước, v.v.. Thông thường họ là những người thuộc hộ nghèo; hộ đặc biệt khó khăn; hộ gia đình là người dân tộc thiểu số; thành viên trong hộ gia đình là thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng; các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam, v.v.. Do vậy, các CSXH phải hướng vào những đối tượng này, nếu không hướng vào phục vụ đúng đối tượng cần phải xem xét lại các CSXH này.
Hai là, việc xây dựng và thực thi CSXH phải minh bạch, công khai, theo đúng quy trình, quy định. Chúng ta đều rõ, quy trình xây dựng và thực thi chính sách nói chung, CSXH nói riêng bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn bắt buộc phải tuân thủ, mỗi giai đoạn có tính chất độc lập tương đối (từ lập chương trình xây dựng; soạn thảo; thẩm tra; trình Quốc hội và các cơ quan chức năng xem xét, thông qua) hay với quy trình tổng thể từ xây dựng, thực thi chính sách đến đánh giá chính sách, với nhiều chủ thể tham gia. Trong quá trình này phải bảo đảm quyền của các chủ thể tham gia không bị sự tác động, sự chi phối tiêu cực của các chủ thể khác, các nhóm khác. Quá trình thực thi chính sách cũng phải bảo đảm có kế hoạch, chương trình tổ chức, thực hiện; kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm, v.v.. Trong từng bước của quá trình này phải thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ. “Khắc tinh” của tham nhũng chính sách là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đạo luật này có những quy định rất rõ ràng về công khai, minh bạch và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật. Theo đó, trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, nhất thiết phải công khai, minh bạch dự thảo văn bản để người dân và doanh nghiệp có thể tham gia góp ý kiến, hạn chế tối đa việc áp dụng các thủ tục rút gọn. Bên cạnh đó, cần tiến hành đánh giá tác động kinh tế - xã hội của chính sách trước khi ban hành để không tạo ra “kẽ hở” cho tham nhũng và những hệ quả không mong đợi”8. Đặc biệt, nhân dân và những đối tượng thụ hưởng các chính sách này phải được tham gia kiểm tra, giám sát việc xây dựng và thực thi CSXH. Hoàn thiện các quy định, trong đó quy định rõ về thẩm quyền ban hành văn bản, vấn đề ủy quyền lập pháp, qua đó loại trừ việc lạm quyền, tùy tiện trong ban hành văn bản liên quan tới CSXH có lợi cho một nhóm nào đó. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn tham gia của các cơ quan nhà nước trong quá trình soạn thảo cũng như thực thi các chính sách xã hội; việc lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt phải lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của chính sách. Những ý kiến của nhân dân và các đối tượng thụ hưởng chính sách phải được công khai, minh bạch. Những người xây dựng và thực thi chính sách phải giải trình rõ những điểm nào phải tiếp thu, điểm nào không tiếp thu, tại sao? Để nhân dân và các đối tượng thụ hưởng chính sách được biết.
Hằng năm phải sơ kết; 3 năm hoặc 5 năm phải tổng kết việc xây dựng và thực thi chính sách. Trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc phản biện xã hội, giám sát, kiểm tra công tác xây dựng và thực thi chính sách xã hội.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội. Các cấp ủy, các Ban Cán sự Đảng các cấp cần lãnh đạo thiết thực, hiệu quả công tác xây dựng và thực thi chính sách xã hội, công tác kiểm tra, giám sát việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội. Các cấp ủy Đảng lãnh đạo bằng cách cho ý kiến về chiến lược, định hướng, những nội dung lớn, quan trọng của chính sách; thông qua lãnh đạo, chỉ đạo công tác nhân sự trong cơ quan lập pháp; thông qua các thủ tục kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng đoàn, các ban cán sự có liên quan tới hoạt động xây dựng và thực thi chính sách xã hội. Các cấp ủy Đảng cũng cần tăng cường lãnh đạo hoạt động kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức tham gia mỗi công đoạn của hoạt động xây dựng và thực thi chính sách xã hội; về hoạt động giám sát của nhân dân, của báo chí trong xây dựng và thực thi chính sách xã hội; về hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng đối với các cơ quan nhà nước đã bảo đảm sự kiểm soát chặt chẽ hoạt động xây dựng và thực thi CSXH để phòng, chống lợi ích nhóm, phòng, chống tham nhũng cả từ xây dựng và cả thực thi chính sách xã hội.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội đối với việc xây dựng và thực thi CSXH của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Công việc kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội xét về bản chất là mang tính nhân dân, tính dân chủ, tính xây dựng và tính khoa học. Kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội đối với việc xây dựng và thực thi CSXH góp phần thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng phục vụ cho các đối tượng an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, v.v..; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực để kịp thời phổ biến nhân rộng, góp phần hoàn thiện hệ CSXH của Đảng, Nhà nước làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo CSXH của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể... Từ đó, kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội dung thiết thực, góp phần đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội và đảm bảo tính hiệu quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của chính sách xã hội. Chúng ta phải coi việc giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội đối với xây dựng và thực thi chính sách nói chung, CSXH nói riêng là công tác của toàn dân, ai cũng có trách nhiệm giám sát và phản biện xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phải có sự phân công cụ thể, ai là chủ thể trực tiếp tổ chức giám sát và phản biện xã hội, tránh phân công chung chung dễ dẫn tới tình trạng trùng lắp nội dung hoặc có những việc không tổ chức nào thực hiện, bỏ sót.
Năm là, nghiên cứu hình thành quy trình xây dựng và thực thi chính sách tương đối độc lập, nhất là đối với các CSXH “nhạy cảm”, dễ bị lợi dụng. Thông thường ở Việt Nam, chính các cơ quan quản lý nhà nước lại là các cơ quan xây dựng chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Hơn nữa, sau khi Quốc hội đã thông qua luật (chủ yếu là các luật khung), để đi vào đời sống, luật thường phải chờ nghị định của Chính phủ, nghị định phải chờ thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành. Đây là công đoạn dễ bị can thiệp, giải thích, hướng dẫn theo ý chủ quan có lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước hoặc nhóm có lợi ích liên quan. Cho nên, có rất nhiều ý kiến cho rằng nên giao công việc xây dựng chính sách về Quốc hội và HĐND, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ phụ trách thực thi chính sách. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đây là công việc không dễ, bởi lẽ xây dựng chính sách đòi hỏi công tác chuyên môn và thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, xây dựng chính sách vừa đòi hỏi các chuyên gia chuyên môn sâu, vừa đòi hỏi phải am hiểu thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội. Để bảo đảm tính độc lập, khách quan tương đối trong xây dựng các CSXH “nhạy cảm”, dễ xảy ra tham nhũng, “Chính phủ không giao cho các cơ quan sẽ thực thi chính sách xây dựng mà ký hợp đồng với các viện nghiên cứu (kể cả các viện nghiên cứu tư nhân như ở nhiều nước) để xây dựng các chính sách này”9. Sau khi các viện nghiên cứu, các cơ quan chuyên môn xây dựng xong các dự thảo chính sách thì các cơ quan quản lý nhà nước tổ chức thẩm định. Quốc hội là cơ quan thẩm định chính sách cuối cùng. Để thực hiện được biện pháp này cần nghiên cứu, thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm và tổ chức thực hiện.
Sáu là, nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của các chủ thể tham gia xây dựng và thực thi chính sách xã hội. Để xây dựng và thực thi CSXH có hiệu quả thì các chủ thể tham gia vừa phải có phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn. Phẩm chất đạo đức giúp họ không vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà hy sinh lợi ích của nhân dân, dân tộc, Tổ quốc. Ý thức trách nhiệm công vụ giúp họ luôn cố gắng xây dựng và thực thi chính sách với tâm huyết cao nhất. Họ có trách nhiệm với nhân dân, với Đảng, Nhà nước mà trước hết là trách nhiệm đối với những đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội. Nếu vô trách nhiệm thì không thể xây dựng được CSXH phù hợp. Năng lực chuyên môn giúp các chủ thể tham gia xây dựng và thực thi CSXH đánh giá đúng chính sách, am hiểu thực tiễn, hiểu rõ thực trạng chính sách xã hội, nguyên nhân của thực trạng và kiến nghị, tham mưu, đề xuất trúng những chính sách mới, cũng như kiến nghị bổ sung, điều chỉnh các CSXH đã có. Do vậy, các chủ thể tham gia xây dựng và thực thi CSXH phải vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có ý thức trách nhiệm công vụ, vừa có năng lực chuyên môn cao. Khi ấy những “kẽ hở”, “lỗ hổng”, “lợi ích nhóm” trong các CSXH sẽ giảm thiểu tối đa.
Biểu hiện “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thực thi các CSXH là đa dạng, phức tạp. Để đấu tranh chống lại những biểu hiện này một cách hiệu quả nhất cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Xây dựng và thực thi CSXH vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Tổ quốc, của Đảng; phải minh bạch, công khai, theo đúng quy trình, quy định; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội; nghiên cứu hình thành quy trình xây dựng và thực thi chính sách tương đối độc lập; nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên môn của các chủ thể tham gia xây dựng và thực thi chính sách xã hội.
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 7-2023
1, 2, 8, 9. Bùi Huy Khiên: “Phòng, chống tham nhũng trong hoạch định chính sách công”, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/02/02/phong-chong-tham-nhung-trong-hoach-dinh-chinh-sach-cong/, ngày đăng: 2-2-2021
3, 4. Nguyễn Mạnh Cường: Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực để phòng, chống “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật; https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/hoan-thien-co-che-kiem-soat-quyen-luc-de-phong-chong-loi-ich-nhom-trong-hoat-dong-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-11922071310492704.htm, ngày đăng: 14-7-2022
5. https://tuoitre.vn/hang-tram-ngan-ti-dong-quy-bao-hiem-xa-hoi-duoc-su-dung-the-nao-20200523111715042.htm., ngày 23-5-2020
6. https://vnexpress.net/de-xuat-bo-bao-hiem-bat-buoc-voi-xe-may-4533345.html, ngày đăng: 8-11-2022
7. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. 1, tr. 27-28.