Tóm tắt: Các thế lực thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tung ra các luận điệu xuyên tạc đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, làm mất cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, từng bước phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam để đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái này; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những nguồn gốc quan trọng nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, là nhân tố quyết định tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ khoá, Hồ Chí Minh, Bảo vệ nền tảng tư tưởng; chủ nghĩa Mác-Lênin

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình Người bôn ba cứu nước, cứu dân, tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế của đất nước; Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cùng với Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh những vấn đề thuộc quy luật và có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh là đúng đắn. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị dân tộc mà còn có ý nghĩa thời đại, trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực.

Đặc biệt là khẳng định sự thống nhất giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận được Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp thu và vận dụng sáng tạo để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, điều đó khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, vận dụng những quan điểm lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh để phản bác các quan sai trái, khẳng định sự đúng đắn, phù hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với cách mạng Việt Nam; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa cộng sản) là hoàn toàn phù hợp.

 

1. Bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam

Các thế lực thù địch cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây với điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận, tiền đề khoa học của phương Tây, vì thế chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ đó chúng đi đến kết luận Hồ Chí Minh đã nhập khẩu chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nên cần loại bỏ khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng. Luận điểm này rất nguy hiểm, nó không chỉ âm mưu làm sụp đổ chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn nhằm loại bỏ cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự tiếp thu, kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.

Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Tất Thành (sau này là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh) đã thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và những giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam và phương Đông. Trên hành trình tìm đường cứu nước đó, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba qua nhiều châu lục với hàng chục quốc gia, bao gồm các nước tư bản đế quốc như Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa thuộc châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh. Người đã hiểu được bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Người nhận định: “Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta... Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta”1. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu những người lao động thuộc địa, một vòi hút máu giai cấp công nhân chính quốc.

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc gặp chủ nghĩa Mác - Lênin qua việc tiếp xúc với tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin. Trước khi đi đến khẳng định con đường cứu nước, cứu dân là con đường cách mạng vô sản, Người đã trăn trở suy nghĩ và tự đặt ra câu hỏi “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?”2 và Người đã suy nghĩ “Muốn hiểu vấn đề đó, chúng ta phải xem xét tình hình hiện nay ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý”3. Từ sự nghiên cứu phân tích đặc điểm lịch sử, địa lý; tình hình kinh tế - xã hội của nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, các nước Đông Dương..., Người đã nhấn mạnh giữa phương Đông và phương Tây có những điểm tương đồng về tư tưởng đấu tranh vì sự công bằng, bình đẳng, xóa bỏ chế độ bóc lột, bất công, bất luận quốc gia đó ở phương Đông hay phương Tây.

Từ sự phân tích về lịch sử, địa lý, đặc biệt Người nhấn mạnh sự cần thiết, tính tất yếu khách quan của việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng, khi mà hàng triệu người dân các nước thuộc địa đang rên xiết dưới gót giày của thực dân xâm lược “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”4 và Người đi đến khẳng định “xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”5.

Tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản và cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng, đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nòng cốt: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”6. Người khẳng định đảng muốn hoàn thành sứ mạng của mình nhất định phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở lý luận, nòng cốt tư tưởng để hoạch định đường lối chính trị của mình: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”7.

Như vậy, bằng sự nghiên cứu một cách khách quan khoa học và các hoạt động thực tiễn về lịch sử, địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội của các nước phương Đông, phương Tây, đặc biệt hiểu rõ bản chất thật sự của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là bóc lột nhân dân lao động ở chính quốc cũng như các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin mặc dù ra đời ở phương Tây, song hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận, lịch sử, văn hóa, đạo đức của Việt Nam, là cơ sở chân chính, chắc chắn nhất, cách mạng nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc cho rằng cách mạng vô sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chỉ là bánh vẽ là ảo tưởng của những người cộng sản

Với những luận điệu này, các thế lực phản động, thù địch cho rằng, Việt Nam tiếp tục lựa chọn con đường đi lên CNXH là sai lầm. Đặc biệt, chúng nhấn mạnh việc chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX, so với hiện nay, trong điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật đã thay đổi nên đã trở nên lạc hậu, lỗi thời; và rằng, trong thực tế, CNXH xây dựng, phát triển ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ. Đồng thời, chúng ra sức tuyên truyền rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay đổi không còn xâm chiếm, bóc lột thuộc địa, và giai cấp công nhân hiện nay cũng đã được trí thức hóa. Vì vậy, Việt Nam tiếp tục lựa chọn con đường đi lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản là sai lầm, cần phải từ bỏ.

Trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có điều  kiện nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản nổi tiếng trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp, cách mạng Mỹ... Người đã nêu lên nhận xét của mình về các cuộc các cuộc cách mạng đó: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”8.  Nắm rõ bản chất của các cuộc cách mạng tư sản thực chất chỉ xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản chứ không mang lại quyền lợi cho nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa, vì vậy, khi tiếp thu được những nội dung của bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”9 và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”10.

Từ sự so sánh các cuộc cách mạng tư sản với các cuộc Cách mạng Tháng Mười do V.I. Lênin và Đảng Cộng sản (Bônsêvích) lãnh đạo, Người đã quyết định lựa chọn con đường của cách mạng vô sản Nga. Người viết: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”11.

Như vậy, đối với các dân tộc thuộc địa nói chung, Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn Ái Quốc, con đường cách mạng vô sản mới giải quyết triệt để mâu thuẫn xã hội. Song Người cũng cho rằng, tiến hành cách mạng vô sản và đi lên CNXH phải tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa và bối cảnh quốc tế cụ thể, mà mỗi dân tộc, quốc gia có những bước đi và hình thức khác nhau. Nghĩa là, vừa phải tuân theo các quy luật chung của tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, vừa tuân theo những quy luật đặc thù của dân tộc, quốc gia đó. Nếu tuyệt đối hóa một trong hai hệ thống quy luật đó, sẽ dẫn đến những lệch lạc, cực đoan, cản trở sự phát triển của dân tộc, quốc gia. Người viết: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta, v.v..”12. Đối với cách mạng Việt Nam, Chánh cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo và thông qua tại Hội thành lập Đảng đầu năm 1930, đã khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”13.

Không giống như các luận điệu xuyên tạc cho rằng CNXH, chủ nghĩa cộng sản chỉ là ảo tưởng của những người cộng sản mà theo quan điểm lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, CNXH mà nhân dân Việt Nam đang hướng tới là những bước đi, những mục tiêu rất thiết thực, cụ thể, sinh động, đáp ứng yêu cầu, khát vọng chính đáng, tốt đẹp của nhân dân. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước được độc lập, nhưng nhà nước dân chủ non trẻ và nhân dân Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ rõ mục đích của chính quyền cách mạng là phải làm cho dân có mặc, có ở, có ăn và được học hành:  “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”14.

Để trả lời cho câu hỏi về mục đích của CNXH là gì? Trong bài phát biểu tại Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội năm 1961, Người đã nói: “Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”15. Người đã nêu một cách cụ thể hơn về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (Thí dụ: lấy vợ, lấy chồng sớm quá, cúng bái, liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”16.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về mục tiêu của CNXH và vai trò của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH một cách rất dễ hiểu, dễ thuyết phục: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống no ấm cho toàn dân ta. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất. Mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng và nghị lực để vượt qua mọi thử thách và hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng này”17 “Đảng ta là đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Vì vậy mà Đảng ta được dân tin, dân phục, dân yêu. Ngày nay, nhiệm vụ của Đảng ta là lãnh đạo quần chúng đánh thắng tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân. Như thế là xây dựng chủ nghĩa xã hội”18. Theo Hồ Chí Minh, CNXH mà chúng ta hướng tới là xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn; một xã hội dân chủ ở tầm cao; một xã hội mà mọi con người được hưởng các quyền dân chủ, bình đẳng và hạnh phúc.

3. Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc cho rằng Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa dân tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự khác biệt giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Như chúng ta đã biết, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nội dung cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là điểm khác biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ nói đến đấu tranh giai cấp bỏ quên lợi ích các dân tộc. Đó là điều hoàn toàn sai lầm và bịa đặt. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng ta hoàn toàn khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển sáng tạo nguyên lý lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Như V.I.Lênin đã nói: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”19. Trên cơ sở nắm vững hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, từ sự phân tích sâu sắc các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, lịch sử... của Việt Nam, Người đã nêu lên những nhận xét của mình về những điểm khác về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam và các nước thuộc địa với các nước tư bản mà ở thời kỳ của Mác, Ănghen chưa có dịp tìm hiểu đầy đủ và V.I. Lênin đề cập đến một cách chưa toàn diện. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, với những lời văn giản dị dễ hiểu, Người đã nói về cách mạng dân tộc, cách mạng giai cấp ở Việt Nam “Cách mệnh chia ra hai thứ: A. Như An Nam đuổi Pháp, Ấn Độ đuổi Anh, Cao Ly đuổi Nhật, Philíppin đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để giành lấy quyền tự do bình đẳng của dân nước mình, ấy là dân tộc cách mệnh. B. Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nơi nào đều liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để đập đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mệnh”20.Việt Nam phải tiến hành hai cuộc cách mạng: dân tộc cách mạng và thế giới cách mạng, “Hai thứ cách mệnh đó tuy có khác nhau, vì dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Còn thế giới cách mệnh thì vô sản giai cấp đứng đầu đi trước”21.

Cũng trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người phân tích bản chất các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Mỹ do giai cấp tư sản lãnh đạo, sau khi giành độc lập, lập lên chính phủ cộng hòa lại quay lại bóc lột nhân dân lao động. Vì vậy, cách mạng giành độc lập dân tộc ở Việt Nam cần phải lựa chọn đường cách mạng nào? Người viết “cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi. Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”22. Người khẳng định, cách mạng Việt Nam chỉ có thể theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin làm cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng Mười Nga.

Trong quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người nhận thấy rằng đối với các nước thuộc địa cách mạng giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu và ngay trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã giải quyết một phần nhiệm vụ giải phóng giai cấp, chỉ có hoàn thành giải phóng dân tộc mới tiến đến thực hiện được giải phóng hoàn toàn giai cấp. Điều này được khẳng định trong nội dung HNTƯ 8 (5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được”23.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với CNXH là sự nhất quán, xuyên suốt trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Đảng ta từ khi thành lập (1930) đến nay luôn quán triệt tư tưởng đó vạch ra đường lối đúng đắn lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn. Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đất nước, Đảng lãnh đạo nhân dân từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng CNXH của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước Việt Nam XHCN ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Người; và đến nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”24.

Con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, là con đường từ độc lập dân tộc đi lên CNXH; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng Việt Nam suốt hơn 93 năm qua; nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ đường lối chiến lược, sách lược của Đảng có giá trị chỉ đạo đối với toàn bộ tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã xác nhận và kiểm nghiệm sự nhất quán, thống nhất giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hoàn toàn không có sự đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Con đường đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, Đảng và dân tộc Việt Nam đang xây dựng và kiên định hướng tới không phải là ảo tưởng mà nhất định sẽ thành công.

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 6/2023

1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb CTQG, H, 2015, tr. 16

2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 1, tr. 45, 45, 47, 47

6, 7, 8, 11, 20, 21, 22. Sđd, T. 2, tr. 289, 289, 296, 304, 287, 287, 292

9, 10. Sđd, T. 12, tr.  30, 563