Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tham mưu là cơ quan tập hợp trí tuệ của toàn Đảng và của toàn xã hội, giúp cho hoạt động lãnh đạo của Đảng đúng đắn, sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo thành công. Do đó, Đảng luôn quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tham mưu. Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham mưu của hệ thống Đảng.

Từ khoá: Tổ chức bộ máy; đội ngũ cán bộ; cơ quan tham mưu của Đảng; thời kỳ đổi mới

Tổng Bí thư Tô Lâm dự Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2024
và triển khai nhiệm vụ năm 2025

1. Kinh nghiệm về xây dựng tổ chức bộ máy

Thứ nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ là cơ sở để tăng cường, minh bạch trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, nhất là người đứng đầu.

Chất lượng tham mưu trước hết phụ thuộc vào trình độ, năng lực của cơ quan chuyên môn, tham mưu và cán bộ làm công tác chuyên môn, tham mưu tham gia đề xuất chủ trương, cơ chế, chính sách, biện pháp, xây dựng đề án, chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo. Chất lượng tham mưu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: không chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan tham mưu giúp việc; tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, hiệu quả; không nhất thiết ở cấp Trung ương có bộ phận nào thì cấp tỉnh có bộ phận tương ứng; tổ chức bộ máy phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, điều kiện tự nhiên, tình hình tổ chức đảng và đảng viên.

HNTƯ 7 khóa XI (2013) đã ban hành Kết luận số 64-KL/TW nêu rõ yêu cầu bộ máy các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp tỉnh cần tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; không nhất thiết cơ quan đảng ở Trung ương có vụ, cục nào thì ở tỉnh, thành ủy cũng có tổ chức tương ứng. Trao thẩm quyền cho ban thường vụ cấp ủy được căn cứ vào tình hình thực tế trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Trung ương về tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu, giúp việc chung mà có thể lập hoặc không lập tổ chức tương ứng trong từng cơ quan. Thực hiện Quy định số 219-QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 27-12-2013, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu, giúp việc được hoàn thiện, phù hợp với những phát sinh mới trong công tác xây dựng Đảng.

Văn phòng tỉnh, thành ủy được bổ sung thêm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cho phù hợp với Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước trong thực hiện các quy định về công tác văn phòng cấp ủy và chế độ lưu trữ bảo mật của Đảng, Nhà nước. Thực hiện kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ tài chính-kế toán trong các tổ chức đảng và tổ chức đảng trực thuộc.

Ban tổ chức tỉnh, thành ủy được bổ sung thẩm quyền tham mưu về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Tổ chức việc tuyển dụng, nâng ngạch, chuyển ngạch cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội ở địa phương theo phân cấp quản lý. Trực tiếp tham mưu cho cấp ủy trong công tác kiểm tra, giám sát về công tác tổ chức xây dựng Đảng đối với các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc. Ban Dân vận được bổ sung thêm nhiệm vụ thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Thứ hai, kiện toàn tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với vai trò lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và trong nước diễn biến nhanh chóng, phức tạp, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới và lớn lao cần nghiên cứu, giải quyết, đòi hỏi công tác tham mưu của các cơ quan Đảng phải ngày càng sắc sảo, nhạy bén và có hiệu quả thiết thực, phải là sản phẩm trí tuệ có chất lượng cao. Do đó, tổ chức bộ máy của các cơ quan tham mưu của Đảng phải được sắp xếp nhằm thực hiện yêu cầu trên. Xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cho Đảng theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm không có sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Phê phán và loại trừ khuynh hướng không đúng như: xem nhẹ vai trò của các cơ quan tham mưu hoặc đề cao quá mức các cơ quan tham mưu bởi lẽ cả hai khuynh hướng này đều làm suy yếu các cơ quan tham mưu, làm suy giảm chất lượng tham mưu, phục vụ, ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo của Đảng.

Về mô hình tổ chức bộ máy của Văn phòng cấp ủy đã được sắp xếp một cách thống nhất trong cả nước, đáp ứng yêu cầu tham mưu và phục vụ. Mô hình tổ chức bộ máy của Văn phòng cấp ủy cấp tỉnh theo Quy định số 219-QĐ/TW của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy là tách bộ phận cơ yếu khỏi phòng hành chính để lập phòng cơ yếu-công nghệ thông tin.

Về mô hình tổ chức của Ban Tổ chức theo Quy định số 219-QĐ/TW của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy thì không quy định có phòng huyện, ban, ngành, sở vì qua thực tiễn thấy không phù hợp. Có bốn phòng chuyên môn được lập là: văn phòng; phòng tổ chức-cán bộ; phòng bảo vệ chính trị nội bộ; phòng huyện, cơ sở đảng, đảng viên. Quy định trao thẩm quyền cho ban thường vụ căn cứ vào thực tiễn ở địa phương có thể lập thêm một đầu mối.

Theo Quy định số 219-QĐ/TW của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy, ban tuyên giáo có năm phòng: văn phòng, phòng tuyên truyền, phòng lý luận chính trị và lịch sử Đảng, phòng văn hóa-văn nghệ, phòng khoa giáo. Quy định mới trao thẩm quyền cho ban thường vụ có thể tùy tình hình thực tế để lập hai phòng: lý luận chính trị và lịch sử Đảng.

Về mô hình tổ chức của Ban Dân vận và Ủy ban kiểm tra tỉnh, thành ủy cơ bản được giữ nguyên như cũ. Hai đảng bộ lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi đơn vị được lập thêm từ một đến ba đầu mối so với quy định chung. Ban nội chính có quy định riêng. Ban Bí thư quyết định tỉnh, thành ủy nào được lập ban kinh tế.

Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan tham mưu của hệ thống Đảng.

Sự phối hợp các ban tham mưu của Đảng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong công tác tham mưu giúp Đảng lãnh đạo, chỉ đạo theo quy định của Điều lệ Đảng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thắng lợi.

Các cơ quan tham mưu của Đảng phối hợp trên cơ sở các quy định của Điều lệ Đảng, các nguyên tắc và tổ chức hoạt động của Đảng, phù hợp với Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu giúp việc đã được Đảng quy định. Mỗi công việc phối hợp phải xác định rõ cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính và các cơ quan tham gia; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan trong quan hệ phối hợp. Mỗi cơ quan đều phải chủ động, tích cực trong phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của mình hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công; hỗ trợ, hợp tác với các cơ quan khác trong quan hệ phối hợp.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, các ban Đảng có thể chủ trì hoặc tham gia phối hợp với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy, các cơ quan, tổ chức liên quan trong tỉnh tham mưu, giúp việc của Đảng. Phối hợp trong việc nghiên cứu, đề xuất, cụ thể hóa một số chủ trương của tỉnh ủy về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quan hệ đối ngoại. Các cơ quan tham mưu của Đảng phối hợp trong việc xây dựng một số đề án, chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Trung ương, của cấp ủy địa phương. Phối hợp trong việc tham mưu giúp Đảng chỉ đạo kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế của Trung ương về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quan hệ đối ngoại, về lĩnh vực tổ chức, cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ; tham mưu, đề xuất về công tác xây dựng Đảng…

2. Kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu

Thứ nhất, từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tham mưu của Đảng.

Để luôn giữ vị trí tiên phong, Đảng phải quyết định lãnh đạo đúng đắn. Muốn vậy, Đảng phải tập hợp được đội ngũ cán bộ tham mưu xuất sắc nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu trên cơ sở tiêu chuẩn khoa học: có đức, có tài, trong đó đức là gốc, là điều kiện cần; năng lực, bản lĩnh, trí tuệ, năng động, nhạy bén là điều kiện đủ của từng cán bộ tham mưu. Cán bộ, công chức cơ quan tham mưu phải là những chuyên gia trên những lĩnh vực đó, có kiến thức tổng hợp, am hiểu địa bàn, vững vàng về chính trị, tư duy sáng tạo. Tổ chức bộ máy được thành lập để giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ. Lấy thực tiễn hoạt động của tổ chức bộ máy làm cơ sở sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Từ cơ cấu tổ chức bộ máy tham mưu để quy định vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh cho phù hợp và lấy thực tiễn hoạt động của hệ thống vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh để sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy. Phải xây dựng hệ thống vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh cụ thể đối với cán bộ tham mưu để làm cơ sở tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tham mưu hợp lý, hiệu quả. Muốn vậy, trước hết phải xây dựng định mức lao động tham mưu; khung năng lực của từng vị trí việc làm tham mưu. Tiêu chuẩn chức danh cần được bổ sung một số quy định: Phải tham gia cấp ủy cùng cấp mới được bầu, bổ nhiệm vào chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý cùng cấp đó; có tinh thần dũng cảm trong tham mưu; có khả năng dự báo; có tính phản biện; có khả năng độc lập suy nghĩ, tham mưu, chịu trách nhiệm về ý kiến tham mưu của mình.

Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu phù hợp với tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm. Cán bộ tham mưu phải là những người vững vàng kiên định về chính trị, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực công tác, am hiểu tình hình thực tế địa phương, có kiến thức, kinh nghiệm về xây dựng Đảng, nhạy bén về chính trị, có khả năng phân tích, tổng hợp và tư duy độc lập; là người có phong cách làm việc dân chủ, tập thể, sâu sát cơ sở, tin dân, trọng dân, có kỹ năng tiếp xúc với cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhạy bén với những nhân tố đang hình thành, kịp thời phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh, đề xuất cách xử lý khả thi. Cán bộ tham mưu là người gương mẫu về đạo đức, lối sống, trung thực, công tâm, trong sạch, tận tụy với công việc, xứng đáng là “mưu sĩ” xuất sắc cho Đảng. Tuyển chọn cán bộ làm công tác tham mưu một cách chặt chẽ, khoa học, thí điểm thực hiện tổ chức thi tuyển cán bộ làm công tác tham mưu. Có cơ chế và chính sách đủ mạnh để thu hút cán bộ có phẩm chất, năng lực tham mưu về làm việc trong các cơ quan tham mưu của Đảng.

Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ, năng lực công tác bởi lẽ tri thức là cơ sở quan trọng để hình thành phong cách làm việc khoa học, là “chìa khoá” để người cán bộ tham mưu thích ứng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại. Người cán bộ tham mưu cần tiếp thu các giá trị của thời đại, thích ứng với điều kiện mới. Trong đội ngũ tham mưu cần tập hợp được những chuyên gia, những nhà khoa học đứng đầu các lĩnh vực chuyên môn khác nhau để giúp cấp ủy ra các quyết định chính trị và tổ chức thực hiện. Cán bộ tham mưu là “bộ óc thứ hai” của cấp ủy, tham gia vào toàn bộ quá trình: phát hiện vấn đề, xác định mục tiêu; tập hợp trí tuệ và soạn thảo phương án, phản hồi, điều chỉnh.

Thứ hai, coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng thành công đội ngũ cán bộ tham mưu cấp chiến lược.

Trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh cán bộ tham mưu, các cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách, tiến hành điều chỉnh quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Những cán bộ này cần được đào tạo một cách cơ bản và thường xuyên được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Mở rộng chế độ kiêm nhiệm các chức vụ lãnh đạo và chế độ cộng tác viên ở các ban Đảng. Nghiên cứu xây dựng vị trí chuyên gia trong danh mục vị trí việc làm ở cơ quan tham mưu của Đảng Trung ương. Vị trí chuyên gia nên thực hiện theo 2 ngạch: chuyên gia và chuyên gia cao cấp. Việc sử dụng chuyên gia, chuyên gia cao cấp theo hướng: nghiên cứu dự báo tình hình về tổ chức xây dựng Đảng; chủ trì các đề án công tác lớn trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị; tổ chức nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm công tác và là nòng cốt để hình thành đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm trong đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức khối Đảng, đoàn thể trong từng lĩnh vực xây dựng Đảng. Bố trí lại những cán bộ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chức danh đang đảm trách, bảo đảm sử dụng, phát huy đúng tài năng, sở trường của từng cán bộ tham mưu và cả đội ngũ tham mưu. Kiên quyết loại bỏ khỏi các ban tham mưu những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, vụ lợi, thiếu trung thực, hẹp hòi.

Cải tiến chế độ, nề nếp sinh hoạt và công tác chuyên môn, từng bước hiện đại hóa phương tiện làm việc của các cơ quan tham mưu, cần đặc biệt coi trọng thực hiện nghiêm chế độ thỉnh thị, báo cáo, chế độ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, chế độ tự phê bình và phê bình, bảo đảm sự đoàn kết trong mọi hoạt động của các cơ quan tham mưu, góp phần mở rộng tầm nhìn bao quát toàn diện của Đảng trong chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc mọi lĩnh vực, ngành nghề, cơ sở, nhất là vùng sâu vùng xa, những cơ sở khó khăn... Tăng cường đầu tư, từng bước hiện đại hóa công cụ, phương tiện làm việc của các cơ quan tham mưu của Đảng.

Thứ ba, phát huy nhân tài làm nòng cốt cho đội ngũ cán bộ tham mưu chuyên trách, sắc sảo, tinh thông.

Thu hút những chuyên gia có kiến thức sâu rộng, tư duy nhạy cảm, kiên định lập trường tham gia vào công tác tham mưu cho Đảng. Tuy nhiên, việc tập hợp, phát huy năng lực của đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa học còn phụ thuộc vào tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy tham mưu. Mỗi cơ quan tham mưu của Đảng phải trở thành trung tâm khoa học-thực tiễn, cán bộ chủ chốt phải là chuyên gia đầu ngành có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn cần tham mưu cho Đảng. Những cán bộ chủ chốt này phải là những đầu mối để liên kết, tập hợp những nhà khoa học, các chuyên gia ở các viện nghiên cứu, các trường đại học, các cơ quan chuyên môn trong hệ thống nhà nước, đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội… Bên cạnh đó cần phát huy dân chủ, tạo điều kiện để cho các chuyên gia độc lập tương đối trong nghiên cứu nhằm gia tăng ý kiến và trí tuệ của các chuyên gia. Tạo lập môi trường tốt cho hoạt động tham mưu, xây dựng được môi trường làm công tác tham mưu trong sạch, dân chủ, được tôn trọng, công bằng, công khai, minh bạch, hấp dẫn, để tạo động lực phấn đấu cho cán bộ tham mưu. Cần xây dựng một thiết chế giám sát nội bộ và một cơ chế giám sát khách quan để bảo đảm tính không vụ lợi, lộng quyền, trù úm, chụp mũ; bảo đảm tính trong sạch, dân chủ, công bằng, gương mẫu, đoàn kết của tập thể lãnh đạo, người đứng đầu, của mỗi cán bộ nhằm thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ chính trị được giao.

Công việc của cán bộ tham mưu là một nghề. Có chế độ, chính sách để phát huy nhân tài trong các cơ quan tham mưu; ổn định chức danh cán bộ tham mưu để xây dựng được đội ngũ cán bộ tham mưu chuyên trách, sắc sảo, tinh thông; hạn chế việc điều động, luân chuyển quá nhiều đội ngũ cán bộ tham mưu. Bên cạnh các chức danh lãnh đạo, quản lý, cần thống nhất bổ sung thêm chức danh chuyên môn (chuyên gia theo các cấp độ) đối với cán bộ tham mưu tại các cơ quan Đảng theo từng lĩnh vực chuyên môn, trong từng bộ phận và kèm theo đó là các chế độ, chính sách đãi ngộ tương xứng với vị trí, vai trò, sự đóng góp của họ. Đây cũng là cơ sở để bố trí, sử dụng, giao nhiệm vụ, vừa tạo môi trường công bằng để động viên, khuyến khích cán bộ và hạn chế những động cơ “chạy đua” vào chức vụ lãnh đạo, quản lý giữa các cán bộ tham mưu trong từng đơn vị, cơ quan. Có chính sách lương, thưởng bảo đảm để cán bộ là chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính chuyên tâm làm công tác tham mưu.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in) số 2/2017