Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội, theo tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam, có bốn giá trị cốt lõi. Đó là các giá trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội nhân văn với mục tiêu giải phóng triệt để con người; là xã hội dân chủ, mọi quyền lực nhà nước đều thực sự thuộc về nhân dân; là xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ; là xã hội phát triển bền vững. Các giá trị cốt lõi này vừa liên hệ thống nhất với nhau, vừa bổ sung lẫn nhau, cùng nhau tạo nên những giá trị cốt lõi, bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo nhiều cách tiếp cận khác nhau như một lý tưởng, một học thuyết hay một chế độ xã hội. Ở đây, chúng ta tiếp cận CNXH với tư cách là CNXH khoa học dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với lát cắt như vậy, CNXH theo tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam có những giá trị cốt lõi sau:
Một là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội nhân văn với mục tiêu giải phóng triệt để con người. 
Điều này đã được C.Mác và Ph.Ănghen nói rõ  trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1. Nghĩa là, CNXH là xã hội giải phóng triệt để con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột, đói khổ, bất công. Trong CNXH con người được phát triển toàn diện. Không phải ngẫu nhiên mà trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng đã xác định: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”2. Tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định một trong những giá trị cốt lõi, đặc trưng của CNXH mà nhân dân Việt Nam hướng tới và xây dựng là “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;”3. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng lại khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”4. 
Trong lịch sử loài người cũng đã có không ít học thuyết, tư tưởng, mô hình xã hội đề ra mục tiêu giải phóng con người nhưng tất cả các học thuyết, tư tưởng, mô hình xã hội này đều không đề ra được biện pháp, con đường, cách thức thực sự khoa học, thực tiễn, nhằm giải phóng triệt để con người. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với mô hình CNXH khoa học mới chỉ ra được mục tiêu, con đường, biện pháp, cách thức đúng đắn và lôi cuốn được những người lao động tham gia vào sự nghiệp giải phóng chính mình và giải phóng nhân loại. Trong điều kiện hiện nay, muốn giải phóng con người Việt Nam triệt để cần kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới tạo ra điều kiện cần và đủ để giải phóng con người triệt để. CNXH hiện thực, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng đã tạo ra một mô hình giải phóng con người, mà trước hết là giải phóng những người lao động mà chưa một mô hình nào vượt qua được. Sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng không phải do nguyên nhân giải phóng con người. Do vậy, chỉ có kiên trì đi lên CNXH, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân Việt Nam mới thực hiện được mục tiêu giải phóng con người Việt Nam triệt để.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội dân chủ, mọi quyền lực nhà nước đều thực sự thuộc về nhân dân. 
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng là người lãnh đạo để bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình trước hết thông qua các cơ quan dân cử. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải  thực sự có đầy đủ quyền lực được nhân dân ủy nhiệm.... Đảng kiên quyết khắc phục tệ độc đoán, chuyên quyền, bao biện làm thay công việc của nhà nước và các đoàn thể nhân dân”5. Bởi lẽ, xã hội XHCN là xã hội “Do nhân dân lao động làm chủ”6. Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.… Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”7.
Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, khẳng định hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.  Điều 3. Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Như vậy, hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Điều này được Hiến pháp quy định cụ thể. 
Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII (2021) của Đảng rút ra bài học quan trọng: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”8. Cũng chính vì quyền lực thuộc về nhân dân trong hệ thống chính trị mà Đại hội XIII yêu cầu: “Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”9. Nghĩa là hoạt động của hệ thống chính trị của CNXH không có mục đích nào khác ngoài mục đích phục vụ nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng lại khẳng định: “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”10. 
Ba là, chủ nghĩa xã hội là xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ. 
Xã hội XHCN là xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ. Điều này thể hiện cụ thể ra là một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, hướng tới các giá trị công bằng, tiến bộ xã hội, nhân văn, chứ không phải xã hội cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Đây vừa là giá trị cốt lõi vừa là mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam hướng tới. Điều này thể hiện rõ trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): “Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội”11. Cương lĩnh năm 1991 cũng nhiều lần khẳng định: “bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội”12. Mặc dù, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), chưa ghi thành một đặc trưng riêng nhưng các nội dung như “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”; “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”13,... đã thể hiện được trong CNXH mọi người sống nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị công bằng, văn minh, tiến bộ xã hội, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. 
Để thực hiện giá trị này của CNXH, ngay khi mở đầu thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VI (1986) của Đảng yêu cầu: “Cần thể hiện đầy đủ trên thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”14. Đại hội VII (1991) của Đảng nhấn mạnh: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người”15. Đại hội VIII (1996) đề ra mục tiêu “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội”16. Đại hội IX của Đảng đã phát triển quan điểm thống nhất chính sách kinh tế và chính sách xã hội lên một bước thành chủ trương “kết hợp phát triển kinh tế - xã hội”. Trên cơ sở đó, Đại hội IX (2001) của Đảng  yêu cầu gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ, cải thiện môi trường17. Đại hội X (2006) của Đảng vẫn tiếp tục tinh thần kết hợp phát triển kinh tế -xã hội với phương châm “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương..., thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế”18. Đại hội X đã đúc rút bài học kinh nghiệm “càng đi vào kinh tế thị trường càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hóa, chăm lo sức khỏe nhân dân”19. Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục tinh thần “kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội”20; “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”21.  Đại hội XII (2016) của Đảng khẳng định tiếp tục “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”22. Đại hội XIII (2021) của Đảng xác định: “Quản lý, phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, xã hội, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”23. Thực hiện được định hướng này là góp phần trực tiếp khẳng định được xã hội mà ở đó mọi người sống nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị công bằng, văn minh, tiến bộ xã hội.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển bền vững.
Khác với chủ nghĩa tư bản, “phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa”24, CNXH đề ra mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế - chính trị, con người, xã hội và môi trường. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, về quan điểm chung, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”25 để bảo đảm bền vững cả kinh tế và chính trị. Trên cơ sở đó phát triển bền vững về con người, xã hội và môi trường. Cũng chính vì vậy mà Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rõ quan điểm “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”26. Để bảo đảm phát triển bền vững về kinh tế và chính trị, Đại hội VII tiếp tục chỉ rõ “phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị,..”27. Trong phương hướng đầu tiên xây dựng CNXH, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”28. Đối với bền vững về môi trường, trong định hướng phát triển, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”29. Đại hội XII xác định rõ mục tiêu “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị; giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế -xã hội”30. Trong công cuộc đổi mới, Đảng rất chú trọng vấn đề phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Đặc biệt tại Đại hội XIII, ngay trong định hướng phát triển thứ nhất, Đảng đã xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…”31. Đại hội nhấn mạnh: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hang đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”32. Có thể nói, xuất phát từ giá trị cốt lõi của CNXH là xã hội phát triển bền vững mà Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, con người, xã hội và môi trường. 
Trên đây là những giá trị cốt lõi của xã hội XHCN theo tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các giá trị cốt lõi này vừa liên hệ thống nhất với nhau, vừa bổ sung lẫn nhau, cùng nhau tạo nên những giá trị cốt lõi, bản chất của CNXH. Chính vì những giá trị cốt lõi này mà nhân loại nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng vẫn không ngừng hướng tới và phấn đấu.
 

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQGST, H, 1995, T. 4, tr. 628
2, 5, 6, 11, 12, 15, 27. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb  ST, H, 1991, tr. 111, 123, 111, 115, 118, 73, 54
3, 7, 13, 20, 21, 28, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQH, H, 2011, tr. 70, 84-85, 70, 124, 80, 72, 78
4, 10, 24. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST, H, 2022, tr. 21, 21-21, 120
8, 9, 23, 31, 32. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb CTQGST, H, 2021, tr. 27-28, 192, 116, 114, 116-117
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H, 1986, tr. 86
16, 25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VIII, Nxb CTQG, H, 1996,  tr.168, 71
17. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 89, 163, 167
18, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 101, 182
22, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ lần thứ XII , Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.30, 104
26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa  VI, Nxb ST, H, 1989.