Tóm tắt: Nghiên cứu, luận giải làm rõ nhận thức đúng đắn của Đảng về tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện ở chỗ đã vận dụng sáng tạo những nội dung mang tính phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể Việt Nam, nhưng không tuyệt đối hóa những điều kiện đặc thù. Điều này thể hiện rõ ở 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Qua kết quả nghiên cứu, bước đầu đề xuất một số điểm cần bổ sung, phát triển trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam làm rõ hơn tính đặc thù khi thực hiện các phương hướng này.

Từ khóa: Tính đặc thù; bổ sung, phát triển; chủ nghĩa Mác-Lênin; chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về tính đặc thù của CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Những nhận thức mới đúng đắn này góp phần làm cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam đạt nhiều kết quả trên thực tế. Đó là những nhận thức chủ yếu sau:
 
1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính phổ biến, tính đặc thù lên chủ nghĩa xã hội
Bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, từ kinh nghiệm của những bài học những năm trước đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu nhận thức mới lại một loạt vấn đề quan trọng về CNXH. Trở lại lời căn dặn của C.Mác và Ph.Ăngghen: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một ý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”1. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức lại những luận điểm mang tính phổ biến của CNXH mà Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế họp ở Mátxcơva năm 1957 đã khái quát2. Xét về bản chất thì 9 nội dung mang tính phổ biến của CNXH mà  Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế họp ở Mátxcơva năm 1957 là đúng. Tuy nhiên, khi vận dụng vào từng nước thì các đảng phải tính tới đặc thù của dân tộc mình. Không tính tới đặc điểm dân tộc nhất định sẽ rơi vào giáo điều. Tất nhiên, không được tuyệt đối hóa đặc thù dân tộc để dẫn tới xét lại, dân tộc, hẹp hòi. Cần quán triệt sâu sắc lời chỉ dẫn của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”3. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải hiểu: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,... là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta”4 chứ không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ lý luận Mác-Lênin. Xuất phát từ những chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rút kinh nghiệm của thời kỳ trước đổi mới, tổng kết thực tiễn Việt Nam và thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ trên nền tảng kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng phải vận dụng sáng tạo phù hợp thực tiễn Việt Nam. Chính vì vậy, ngay từ Đại hội VI (1986), Đảng thừa nhận: “Trong lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan”5. Điều quan trọng là ngay từ Đại hội VI, Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Để khắc phục những khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta, trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó, các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội”6. Nhưng ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có thái độ rất đúng đắn: “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”7. Trên tinh thần ấy, Đảng bổ sung nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho phù hợp thực tiễn Việt Nam và thời đại. Chẳng hạn về bản chất của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đại diện, tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, mà còn cho cả dân tộc. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin mới đề cập tới xây dựng đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, thì Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu tăng cường xây dựng Đảng cả về đạo đức. Hay ở các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu là liên minh công-nông, trong điều kiện Việt Nam, Đảng bổ sung liên minh công nhân-nông dân-trí thức. Nếu V.I.Lênin mới dừng ở kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì Đảng đã phát triển thành kinh tế thị trường định hướng XHCN... Tất cả những luận điểm lý luận này là kết quả của sự nhận thức và vận dụng đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện đặc thù Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
2. Về tính đặc thù trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ đổi mới, Đại hội VII (1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hai mươi năm sau, bối cảnh thế giới và Việt Nam đều có những đổi thay căn bản, tại Đại hội XI (2011) Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam như sau:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh8. Tám phương hướng trên đều bảo đảm sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Cụ thể:
Với phương hướng thứ nhất, nhìn nhận CNH, HĐH là vấn đề cơ bản của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Xem xét CNH, HĐH đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn CNH, HĐH với bảo vệ tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện CNH, HĐH; gắn CNH, HĐH nói chung với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là phù hợp thực tế Việt Nam.
Với phương hướng thứ hai, kinh tế thị trường định hướng XHCN được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việt Nam sẽ thực hiện nhất quán, lâu dài mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này đã được nêu ra và về đại thể đã được toàn Đảng hiểu và quán triệt. Đặc biệt, tại Đại hội XII (2016) của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”9.
Với phương hướng thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức toàn diện hơn về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị.
Với phương hướng thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc.
Với phương hướng thứ năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong quá trình thực hiện Cương lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn”, “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” đã chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.
Với hướng hướng thứ sáu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ XHCN như một phương hướng cơ bản xây dựng CNXH. Gắn xây dựng dân chủ XHCN với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Với phương hướng thứ bảy, Đảng Cộng sản Việt Nam coi xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Với phương hướng thứ tám, trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, mà còn của cả dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức.
Đồng thời với thực hiện 8 phương hướng trên Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu giải quyết tốt 9 mối quan hệ lớn: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật của  thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ…”10. Những quan hệ lớn này hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể Việt Nam, thể hiện tính đặc thù Việt Nam rất rõ nét.
 
3. Những điểm cần bổ sung, phát triển trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam làm rõ hơn tính đặc thù khi thực hiện các phương hướng trên
Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng bao trùm-mô hình phát triển bao gồm cả kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, trong đó con người phải là trung tâm. Trong mô hình phát triển này, mọi người đều có cơ hội thể hiện hết tài năng, sáng tạo, năng lực của mình và mọi người cũng như mỗi người đều được hưởng lợi, bảo đảm “không bỏ ai lại phía sau” và phải hướng tới “nhu cầu của những đối tượng dễ bị tổn thương nhất đều được đáp ứng”. Mô hình phát triển bao trùm sẽ phát huy được vai trò con người, từ đó giải quyết được điểm nghẽn về nguồn nhân lực chất lượng cao, từ đây sẽ giải quyết được điểm nghẽn về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn CNH, HĐH với nông nghiệp, nông thôn; từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát triển các ngành kinh tế biển phù hợp điều kiện cụ thể. Tạo đột phá trong năng suất, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao; công nghiệp hóa dược và kinh tế du lịch. Quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống.
Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực lãnh đạo, quản trị đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh phát triển đất nước. Phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội…”. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, là trung tâm, mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước.
Ba là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, chú trọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Giữ vững an ninh, an toàn trật tự xã hội cho phát triển đất nước. Chủ động ứng phó với những vấn đề an ninh phi truyền thống. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên xuốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH, là nhiệm vụ sống còn của đất nước và dân tộc, trong đó mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn biển, đảo và giữ vững an ninh chính trị là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, chủ động thực hiện các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại thế hệ mới; xử lý tốt các mối quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước. Chúng ta nên bắt đầu phát triển tư duy đối ngoại theo hướng định vị Việt Nam là “quốc gia phát triển” vào năm 2045.
Năm là, thực hành và phát huy dân chủ XHCN; phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với kỷ cương, kỷ luật. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng, khơi dậy niềm tin, khát vọng, niềm tự hào dân tộc của người Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Tạo đột phá trong phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; khơi dậy niềm tin, khát vọng phát triển của mỗi người Việt Nam; phát huy sức mạnh mềm của dân tộc cho phát triển. Giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc, kéo dài; ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội; phát triển xã hội lành mạnh. Lấy con người Việt Nam làm trung tâm của mọi sự phát triển.
Sáu là, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, liêm chính, hành động vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ. Xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, liêm chính, từng bước xây dựng Chính phủ điện tử; quản trị thông minh; xây dựng cơ chế kiểm soát hiệu quả quyền lực.
Bảy là, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm khiết, có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn ngang tầm nhiệm vụ.
Đồng thời tiếp tục quán triệt và xử lý tốt 9 quan hệ lớn theo tinh thần Đại hội XII của Đảng và chủ động nhận thức, giải quyết tốt một số quan hệ phát sinh khác. Đó là quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu sách lược; quan hệ giữa phát huy nội lực và phát huy ngoại lực; quan hệ giữa thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, pháp luật; quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong điều kiện mới.
 
 
 
 
Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 7-2019
1. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 3, tr. 51
2. Xem: Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa: Cương lĩnh của chúng ta, Nxb ST, H,1958, tr. 23-24. (Một là, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân là Đảng mácxít-lêninnít đối với quần chúng lao động trong cách mạng vô sản, và trong sự thiết lập nền chuyên chính vô sản; Hai là, liên minh của giai cấp công nhân với quần chúng, cơ bản là nông dân và các tầng lớp lao động khác; Ba là, thủ tiêu chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu công cộng về những tư liệu sản xuất cơ bản; Bốn là, cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo CNXH; Năm là, phát triển kinh tế nhân dân có kế hoạch, phục vụ CNXH, nâng cao đời sống người lao động; Sáu là, thực hiện cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, đào tạo tầng lớp trí thức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; Bảy là, xoá bỏ sự áp bức dân tộc, xây dựng sự bình đẳng, tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc; Tám là, bảo vệ những thành quả của CNXH chống sự phá hoại của kẻ thù bên ngoài và bên trong; Chín là, đoàn kết  giai cấp công nhân quốc tế, thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản)
3. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, T. 4, tr. 232
4. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 11, tr. 611
5, 6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H, 1987, tr. 17, 30, 125
8, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 72, 80
9. Xem: 
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 102.